Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

Dẫn nhập Nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người dưới nhiều góc độ khác nhau được tiến hành ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chủ yếu trình bày quyền con người dưới góc độ luật pháp, đặc biệt là dưới góc độ luật pháp quốc tế và các cơ chế bảm đảm quyền con người . Quyền con người dưới góc độ triết học gần như không được đề cập, mặc dù các triết gia là những người đầu tiên đề ra các quan niệm về quyền con người trước khi các quyền này được thể chế hóa trong luật thực định các quốc gia cũng như các văn bản của luật pháp quốc tế. Thời điểm xuất hiện của luận thuyết về quyền con người là vấn đề gây tranh cãi. Người ta thường chú ý đến sự cụ thể hóa quyền con người trong các văn kiện quốc gia, tức luật thực định mà có xu hướng bỏ qua các tác phẩm triết học làm tiền để cho sự lên ngôi của quyền con người. Hơn nữa, sự lựa chọn văn bản luật thực định nền tảng của quyền con người khác nhau ở từng quốc gia: Tại Pháp là Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, được Quốc hội lập hiến thông qua ngày 26 tháng 8 năm 1789, được xem như văn bản thiết lập nên chế độ mới. Văn bản này là sự tiếp nối của Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ được Quốc hội thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776, và tại Anh Quốc là bản Tuyên ngôn về các quyền (The Bill of Rights) được soạn thảo năm 1688, được công bố ngày 13 tháng 2 năm 1689. Cho đến thế kỷ 17-18, các quyền này mới được công nhận bởi luật thực định. Chúng tôi cho rằng, giai đoạn quan trọng nhất trong tiến trình hình thành và phát triển của nhận thức triết học về quyền con người là giai đoạn Cận đại. Thời kỳ này kế thừa và bổ sung những tư tưởng về quyền con người của các giai đoạn trước; đây cũng là giai đoạn các luận thuyết về quyền cơ bản của con người được cụ thể hóa thành văn bản luật của Nhà nước. Như chúng ta đã biết, quyền cơ bản của con người là quyền được sống trong tự do, được tôn trọng nhân cách, lương tri và phẩm giá, được Nhà nước thừa nhận, pháp luật bảo đảm bằng các cơ chế hữu hiệu về quyền sống của một CON NGƯỜI. Vì thế, chủ nghĩa nhân đạo, triết lý về nhân phẩm và tôn vinh con người là nguồn gốc của sự hình thành và phát triển quyền con người. 1. Những tư tưởng đầu tiên về quyền con người trong triết học Cổ đại và Trung đại Trong các tác phẩm của mình, Aristote (384 TCN - 322 TCN) đã phân biệt giữa những gì thuộc “lẽ công bằng tự nhiên” và những gì là “công bằng bởi quy ước”. Nhiều cuộc hội thoại của Platon (khoảng 427 TCN - 347 TCN) đã đánh giá luận đề của những nhà ngụy biện về luật tự nhiên và sự đối lập tồn tại giữa tự nhiên (phusis) và luật lệ (nomos). Nhân vật Callicles trong các đối thoại của Platon cho rằng pháp luật được tạo nên nhằm bảo vệ kẻ yếu chống lại uy quyền của sức mạnh. Tương tự, nhà thông thái Hippias (khoảng 465 TCN-390 TCN) đối lập mối liên hệ tự nhiên giữa các thành viên trong một gia đình với luật lệ vốn áp đặt bởi sức mạnh của nhiều điều với tự nhiên. Trong tác phẩm “Các luật lệ” của Platon, nhân vật Athénien không thừa nhận tồn tại thứ luật lệ công bằng một cách tự nhiên, mà cho rằng luật lệ là một đối tượng của tranh cãi và thay đổi, mỗi thứ trong đó được thực hiện một cách nhân tạo . Sau khi nêu ra ý kiến của các nhà ngụy biện về chủ đề này, Aristote phân biệt ở ngay bên trong sự công bằng về mặt chính trị một uy lực mang tính tất nhiên. Bởi vì theo ông, uy lực này có cùng một giá trị ở khắp mọi nơi và không hề phụ thuộc vào việc quan điểm số đông chấp nhận hay từ chối giá trị này . Trong “Tu từ pháp”, Aristote đặt các luật lệ được thừa nhận bởi sự đồng thuận phổ biến với các luật lệ cá biệt chi phối trong mỗi thành bang . Triết học Hi Lạp sau đó được tiếp sức bởi những người theo chủ nghĩa khắc kỷ và Ciceron (106 TCN - 43 TCN). Cả ba dòng này ảnh hưởng tới các nhà luật học La Mã thời Đế chế, những người này phân biệt luật pháp thành bang (ius civile) chỉ dành riêng cho người có quy chế công dân, và thứ luật pháp chung cho mọi người được gọi là ius gentium (luật dành cho mọi người), nhưng cũng được gọi là ius naturale hay lex naturalis (luật tự nhiên). Thứ luật ius gentium này được quan án La Mã tạo nên nhằm mở rộng phạm vi của luật dành riêng cho công dân thành bang (ius proprium ipsius/civilitatis), cho phép những người không phải là công dân thành bang tiếp cận với các thiết chế để tiến hành các vụ việc liên quan đến cưới xin, hợp đồng, thừa kế, bồi thường thiệt hại... Cho nên, luật cho mọi người jus gentitum là một nhánh của luật La Mã dành cho những người không có quy chế công dân. Chủ nghĩa kinh viện thời Trung cổ thừa hưởng các triết lý được các nhà triết học Cổ đại đúc kết. Thomas Aquinas (1225-1274) phân biệt luật tự nhiên theo nghĩa hẹp, mà các luật lệ thực định không thể bỏ qua trong bất cứ trường hợp nào, và luật ius gentium – luật tự nhiên thứ cấp không có cùng một uy thế. Một số thiết chế, thân phận nô lệ và sở hữu có đặc tính này: Theo lẽ tự nhiên, mọi người đều tự do và bình đẳng, mọi vật với họ đều chung nhất, nhưng luật thực định có thể đẩy con người ta tới tình trạng nô lệ hoặc đặt ra các đặc quyền về sở hữu. Đối với các nhà tư tưởng thời Cổ đại và thời Trung cổ, luật tự nhiên không trao cho cá nhân các quyền cơ bản, vốn là đòi hỏi tiên quyết được những người sáng lập của nhân quyền và dân quyền nêu ra từ thế kỷ 17. Theo các quan niệm Cổ đại Hy Lạp - La Mã, tự do mang bản chất tập thể: chính thành bang tự do chứ không phải các thành viên của thành bang với tư cách cá nhân. Trong thành bang, các quyền chính trị là đặc quyền của một thiểu số các công dân. Đây là tàn tích của chế độ nô lệ, bị đánh giá là tương hợp với luận thuyết Cơ đốc giáo vốn cho rằng thứ tự do như thế là đủ. Nếu nhìn nhận dưới góc độ quan niệm hiện đại về quyền con người, vốn hướng tới bảo vệ phẩm giá của con người, thì chúng ta có thể tìm thấy những tuyên bố về phẩm giá con người đã có từ thời Cổ đại. Sự tương phản giữa loài vật hướng về mặt đất và “cái miệng cao cả được ban cho con người để ngắm nhìn bầu trời”(tức con người) đã xuất hiện trong những câu thơ đầu tiên của sử thi Metamorphose của nhà thơ La Mã Ovidius. Ông đã lấy cảm hứng từ các triết gia khắc kỷ, nhất là từ những bài giảng của triết gia Panetius (thế kỷ thứ 2 trước CN) được phát triển bởi Ciceron. Theo đó, con người được phân biệt với các loài vật khác bởi trí tuệ (celeritate mentis), chỉ duy nhất con người vươn lên bầu trời, con người khám phá ra luật lệ để điều khiển sự đều đặn của các tinh tú. Trong chuyên luận về nghĩa vụ (De officiis), Ciceron phân biệt hai loại sắc đẹp: vẻ duyên dáng (venustas) dành cho phụ nữ, và nhân phẩm (dignitas) của riêng người đàn ông . Bà con họ hàng với Chúa trời là một trong các sự thực khắc kỷ, người nô lệ cũng có tổ tiên là Chúa trời . Câu chuyện đầu tiên về Đấng sáng tạo trong sách “Sáng Thế” mô tả Thiên chúa làm ra con người theo hình ảnh của Người. Tiếp theo bằng một đoạn văn khác. Theo đó: “Đức chúa trời nặn ra con người từ đất sét, người thổi vào con người hơi thở cuộc sống và nhờ đó con người trở thành một sinh vật” . Từ hai câu chuyện về Đấng sáng tạo, nhà triết học thời Trung cổ Hugo de Sancto Victore (1096 - 1141) đã suy ra một hình thức của thuyết nhị nguyên đối lập con người tạo lên từ bùn đất (homo/homus), với bản thể vươn lên phía bầu trời (anthropos), và ông giải thích về 3 câu thơ trên của Ovidius. Bình luận câu chuyện về Đấng sáng tạo, các đức cha người Hi Lạp vào thế kỷ thứ 9 đã phân biệt con người với các loài động vật. Theo Saint Gréogoir de Nysse (sống khoảng 335-395), con người được đặt trên trái đất, tách biệt với giới tự nhiên của loài vật, con người tự phân biệt với các vật được sáng tạo ra khác bởi tư thế đứng thẳng và ngôn ngữ, cách diễn đạt bằng ký hiệu, bàn tay và luôn tự do để đạt tới điều này. Các thuộc tính này tương ứng với vị thế chúa tể muôn loài, và là những dấu hiệu của một phẩm cách đế vương, là cội nguồn để Chúa tạo ra con người, Chúa tạo tạo ra con người theo hình ảnh của chính mình và trao cho linh hồn một phẩm cách đế vương, cao đẹp. Trong bài thuyết giáo của John Chrysostom, tổng giám mục của Constantinopolis (sống khoảng 349-407), chứa đựng luận thuyết tương tự trong đó từ phẩm cách (dignitas) được thay bằng từ danh dự (honor). Các nhà nhân đạo chủ nghĩa đã tiếp tục phát triển các chủ đề liên quan đến phẩm cách con người để phản ứng chống lại chủ nghĩa bi quan của một số nhà tư tưởng tôn giáo. Cuốn sách viết bằng tiếng Latinh của nhà thơ Ý Francesco Petrarca (1304-1374) có hình thức của một đoạn đối thoại giữa hai nhân vật, trong đó một người mô tả sự khốn cùng của điều kiện con người, trong khi người kia biện luận về phẩm cách con người. Đoạn hội thoại là sự bác bỏ ngầm một văn bản được phổ biến rộng rãi trong giai đoạn cuối của Thời kỳ Trung cổ của Hồng y Lathaire, người sau trở thành giáo hoàng Innocent III, Petrarca triển khai chủ đề kinh thánh về việc con người được tạo ra theo hình ảnh của Đức Chúa: Ông dựa trên hai ý tưởng, một theo hướng nhân đạo dứt khoát và trình bày tỉ mỉ những điều huyền diệu của văn minh, sản phẩm của con người, còn ý tưởng còn lại hoàn toàn mang tính tôn giáo, con người có được phẩm cách từ khi sinh ra và được một thiên thần bảo vệ. Nếu quan niệm các quyền cơ bản có nguồn gốc trong triết học về quyền tự nhiên, thì chúng ta cần tìm kiếm các nguồn của nó vào giai đoạn muộn hơn của lịch sử triết học: giai đoạn Phục hưng. 2. Tư tưởng về quyền con người trong thời Phục hưng và Cải cách tôn giáo Di sản thời Cổ đại vẫn được lưu truyền và làm sâu sắc hơn trong suốt thời kỳ Trung cổ, nhưng các nhà nhân đạo chủ nghĩa thời kỳ Phục hưng mang tới cho nó một sức sống mới, trước hết thông qua việc khám phá lại các văn bản của Platon được những người Hi Lạp di cư mang tới Florence (Italia). Vào cuối thời kỳ Trung cổ, sức mạnh toàn năng của triết học Aristote được triết học của Thomas Aquinas củng cố bắt đầu bị dao động bởi triết học Phục hưng. Chúng ta có thể liệt kê nhiều triết gia của làn sóng Phục hưng thứ nhất: Hồng Y Bessarion (1400-1472), Marsilio Ficino (1433-1499), Pietro Pomponazzi (1462-1525) Mario Nizolius (1492-1540, Juan Luis Vives (1492-1540), Piere de la Ramé (1515-1572). Trong thời kỳ này, ca ngợi phẩm cách con người là một chủ đề cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo (thế kỷ 15 và 16). Vào năm 1453 Giannozzo Manetti, công sứ tòa thành Florence tại Napoli đã công bố một tác phẩm mang tên: De dignitate et excellentia hominis (Bàn về nhân phẩm con người và điều tuyệt vời). Triết gia Ý thời Phục hưng Giovanni Pico della Mirandola (1463-1494), là tác giả của 2 cuốn sách có tiêu đề "Bàn về nhân phẩm con người" (1486, De hominis dignitate và Heptaplus (1489, bảy ngày sáng tạo). Trong tác phẩm De hominis dignitate, Pico della Mirandola chỉ rõ cách thức để con người gắng sánh kịp “nhân phẩm và vinh quang” của các thiên thần. Cuốn sách Heptaplus là bài thuyết trình về bảy ngày của Đấng sáng tạo. Trong đó mô tả con người chiếm một vị trí trung gian giữa các thiên thần và các vật được sáng tạo khác. Đồng thời, ông quan niệm rằng bằng việc sử dụng sáng suốt tự do của mình, con người có thể sánh ngang với các thiên thần nhưng nếu sử dụng sai tự do, con người sẽ bị hạ cấp xuống tình trạng tồi tệ hơn cả loài vật. Một nhân vật khác của tư tưởng nhân đạo là Carlos Bovillus (1475 - 1553), tác giả của tác phẩm có tựa đề “De sapiente” (Về người tinh khôn). Theo ông, con người giữ vị trí cao nhất trong tự nhiên: “Chỉ dành cho con người, tự nhiên đã trao tặng cho tư thế đứng thẳng để chiêm ngưỡng những điều tuyệt vời… Đầu của con người dĩ nhiên đĩnh đạc chiếm đỉnh cao nhất của cơ thể”. Và ông kết luận: “Các bản thể của tự nhiên tồn tại ba dạng: thực vật, động vật nửa đứng, hướng về một phía và bản thể là con người, luôn hướng lên cao và ở đỉnh cao nhất thế gian” . Nói cách khác, theo Bovillus, chức năng của trí não là tư duy. Bàn về nhân phẩm con người - De hominis dignitate của Pico della Mirandola được mở đầu dựa trên nền bài hát ca ngợi sự vĩ đại của con người, mượn lời thần Hermes Trismegistre: “Đó là phép mầu vĩ đại, Ôi ! Asceplio, đấy chính là con người”. Theo ông, chính Đấng tạo hóa làm nên con người. Và ông diễn giải: “Chỗ đứng của ngươi, khuôn mặt và tư chất của ngươi, ngươi trông nom, chinh phục và sở hữu. Tự nhiên bao quanh bởi những loài khác và bởi luật lệ được ngươi lập ra. Nhưng chính người thì không bị giới hạn bởi một biên giới nào, giữa đôi bàn tay mà ta đã đặt ngươi ở đó, ngươi tự định đoạt chính ngươi…” . Và “Con người được ôm chặt và hội tụ trong mình tất cả bản tính của thế giới toàn năng”, “thế giới được đặt tên bởi nhà tiên tri Moise - con người vĩ đại. Vì nếu con người là một thế giới nhỏ bé, thì tương tự thế giới là một con người vĩ đại… Toàn thể thế gian đều chứa đựng trong con người”. Kế tục Aristote, các nhà nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng phân biệt bốn mức độ sự thật trong thế gian: tự nhiên thô ráp, cây cối có một “linh hồn nuôi dưỡng, loài động vật có năng lực cảm giác, và cao hơn trên cả ba loại đó, chiếm lĩnh Tạo hóa, là linh hồn lý tính của con người” . Theo Bovillus, loài người chứa đựng trong bản thân nó bốn thang bậc của Tạo hóa. Ba giai đoạn tuổi của đời người phục tùng cùng một sơ đồ: Trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng như cỏ cây, trẻ con phù hợp với sự sống loài vật. Chỉ những thực thể có lý tính mới “sánh được với Con Người, người đàn ông văn minh” . Trong suốt thời kỳ Trung cổ với sự thống trị của Nhà thờ, nhân phẩm được chuyển dời từ con người sang tín đồ Cơ đốc. Theo đó, vì tội lỗi của Con người đầu tiên, nhân phẩm chỉ dành cho tín đồ Cơ đốc, được cứu rỗi bởi sự hiến sinh của chúa Jesus, nhân phẩm đế vương (regia dignitas) của người Cơ đốc giáo giống nhân phẩm đế vương của Chúa Trời. Các tác giả Cơ đốc giáo thừa nhận loại tồn tại thứ ba, được phú cho trí thông minh, giữa Chúa trời và con người, công nhận ưu thế của con người so với các thiên thần, không chỉ vì Nhập thế mà vì không văn bản nào nói rằng thiên thần được tạo ra từ hình ảnh của Chúa . Nguồn gốc triết học của luận thuyết về quyền con người còn là sự khám phá giá giá trị cá nhân. René Descartes (1596 – 1650) có một vai trò cơ bản trong việc tìm kiếm chủ thể của cái Tôi (với luận đề nổi tiếng: Tôi tư duy, tôi tồn tại - Cogito, ergo sum), ý thức được tư duy của mình sẽ giúp con người tới sự tồn tại. Tuy nhiên, triết học của Descartes không được xem như một nguồn trực tiếp của việc bảo vệ quyền con người bởi vì ông là nạn nhân của hai sự phong tỏa: Thứ nhất, ông tán thành vô điều kiện giáo lý cơ bản của Nhà thờ công giáo, công nhận sự tồn tại của một đức Chúa đấng sáng tạo mà thực chất là tất cả tinh thần, sự phân biệt cứng nhắc giữa linh hồn và thể xác, được ông đánh giá là cần thiết cho niềm tin vào sự tồn tại cá nhân. Thứ hai, ông ủng hộ chủ nghĩa bảo hoàng và thù nghịch với mọi đánh giá hay chỉ trích các thể chế chính trị đương thời của nước Pháp. Quan niệm của Descartes đóng kín trong một vòng tư duy luẩn quẩn (con người là chủ thế muôn loài, bị chi phối bởi luật lệ Trời định thông qua nhà vua). Quan niệm này rõ ràng tồn tại những hạn chế, và sẽ được Hobbes và Spinoza phê phán sau này. 3. Tư tưởng về quyền con người thời kỳ Khai sáng Vào thế kỷ 17 với trào lưu triết học Ánh sáng, mà chúng ta vẫn quen gọi là kỷ Ánh sáng, tư tưởng tự do tôn giáo bùng nổ thành phong trào và là tiền đề dẫn tới việc thừa nhận các quyền cơ bản của cá nhân. Tư tưởng mang tính cách mạng về quyền con người bắt đầu từ Hobbes và tiếp tục được Spinoza phát triển, với sự thừa nhận các quyền cá nhân không thể tước bỏ Thomas Hobbes (1588-1679) đưa ra các kết luận thông qua việc quan sát cách thức con người cư xử với nhau. Tư tưởng chính trị của ông dự trên nền chủ nghĩa bi quan và sự cam chịu. Khẳng định sự cần thiết của nền quân chủ mạnh, Hobbes thừa nhận một số quyền cơ bản của các thần dân của đấng quân vương. Theo Hobbes, Nhà nước được tạo nên từ một khế ước mà thông qua việc kí kết con người quyết định thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên; những người ký kết không thể từ bỏ các quyền cơ bản không thể chuyển nhượng: quyền được tồn tại, quyền chống lại trật tự có thể gây nguy hại cho họ, quyền được sống sót vốn bao gồm những gì cần thiết để sống tốt, quyền không buộc tội chính mình cũng như buộc tội người khác mà việc đó khiến chúng ta rơi vào cảnh nguy khốn . Nhà nước quân chủ theo Hobbes là dạng cai trị tốt nhất và không phải là một Nhà nước toàn trị . Chính Hobbes là người đề ra những tiền đề của Nhà nước tự do . Cuộc đấu tranh của “mọi người chống lại mọi người” (bellum omnium in omnes) vốn đặc trưng tình trạng tự nhiên tiếp tục trong trạng thái dân sự (trạng thái có tổ chức) bị chi phối bởi các giá trị của thị trường” . Chủ nghĩa tự do của Hobbes không bàn tới đề tài tôn giáo. Tuy nhiên nhận thức được vấn đề liên quan đến diễn giải Kinh thánh mang tính thời sự vào thời đó, Hobbes tỏ rõ sự tiếc nuối rõ ràng cho quyền uy Giáo hoàng. Tại một Châu Âu chia rẽ bởi các tín ngưỡng cạnh tranh đối nghịch nhau, thì nhà vua có thẩm quyền xử lý các tranh cãi tôn giáo. Theo Hobbes, “trong Nhà nước cơ đốc giáo, nhà vua là mục sư tối cao, và chính người chịu trách nhiệm về bầy tôi của người” . Vai trò đứng đầu của Nhà thờ Anh giáo được trao cho nữ hoàng Anh, trong tư tưởng chính trị pháp lý của Hobbes, ông kịch liệt lên án vô thần, và gộp niềm tin tôn giáo vào một hạt nhân cơ bản là niềm tin vào Chúa Jesus. Theo ông, niềm tin đó không phải là vấn đề khoa học hay tranh cãi mà là uy quyền . Spinoza (1632-1677) là con trai của thương nhân Do thái người Amsterdam (Hà Lan). Ông bị trục xuất bởi chính quyền thành phố quê hương vào ngày 27 tháng 7 năm 1656. Nguyên nhân của sự khai trừ còn gây tranh cãi: phải chăng ông đã đưa ra những quan điểm dị giáo dựa trên diễn dịch kinh thánh, hay ông bị chê trách vì các quan hệ hữu hảo với những người cơ đốc ly khai, nhất là các tín đồ dòng Men-nô. Spinoza chịu ảnh hưởng bởi thầy dạy tiếng Latin của mình, cựu thầy tu từ Flandre là Franciscus Afinius van den Enden, vốn là người có tư tưởng tự do, vô thần. Tác phẩm duy nhất của Spinoza được xuất bản lúc ông còn sống là Tractatus theologicopoliticus - Chuyên luận về thần học - chính trị (1670), còn “Đạo đức học” (Ethica, ordine geometrico demonstrata) và “Chuyên luận chính trị” (Tractatus politicus) chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời. Trong tác phẩm “Đạo đức học” (Ethica, ordine geometrico demonstrata), Spinoza thiết lập nên một bản sắc giữa Chúa và tự nhiên (Deus sive natura), bao gồm mọi bản thể tồn tại. Chúa trời có hai thuộc tính: tư tưởng và tầm vóc. Cũng vậy, con người gồm tinh thần và thể xác, nhưng “nội dung của Tinh thần chính là Thể xác tồn tại và không gì khác” . Tinh thần không có bất kỳ sự tồn tại cá nhân nào, tinh thần tách rời thể xác, là thứ còn lại sau khi phá hủy thể xác và không phân biệt với Chúa trời . Như vậy, bản chất vô hình của Chúa Trời (thiên tính), sự phân biệt linh hồn-thể xác, sự bất tử của linh hồn với tư cách là thứ còn lại của cá nhân bị phủ nhận. Điều này trái ngược với các tiên đề cơ bản của thuyết Descartes cũng như giáo lý cơ đốc giáo. Việc xác định một chúa Trời hữu hình và tự nhiên cho thấy Spinoza là người theo chủ nghĩa duy vật, chủ trương thuyết phiếm thần , thậm chí là vô thần. Trong “Chuyên luận chính trị” (Tractatus politicus), Spinoza phân biệt quyền lực của “sức mạnh chủ quyền” điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng trong sự hòa hợp với sự thanh thản bên trong (chương XIX), “quyền tự nhiên” đối với tự do tư tưởng và tự do ngôn luận được đề cập trong chương tiếp theo. Theo đó, “thực tế, bất kỳ ai cũng được hưởng sự độc lập về mặt tư tưởng và đức tin, quyền cá nhân này không bao giờ bị tước bỏ trái với ý muốn của người đó” , và “không ai có thể làm mất đi tự do đánh giá và tự do suy nghĩ về vấn đề mà anh ta muốn và mọi cá nhân căn cứ vào quyền tự nhiên cao cả, là chủ nhân của suy nghĩ của mình” . Spinoza đồng thời trình bày sự phân biệt giữa tự do tư tưởng và tôn giáo, sức mạnh của uy quyền công, có thể hạn chế “quyền hành động” của mỗi thành viên của cộng đồng . Có thể nói Spinoza là cha đẻ của chủ nghĩa cá nhân hiện đại và việc thừa nhận các quyền cơ bản không thể tước bỏ. Điều này thể hiện rõ ràng qua quan niệm của Spinoza về tự do tôn giáo - vốn là vấn đề tranh cãi nhất lúc đương thời, và là quyền tự do căn bản của con người. Như vậy có thể nói tư tưởng của Spinoza vượt trước thời đại. John Locke (1632-1704) vào cuối đời đã công bố hai tác phẩm về lý thuyết chính trị: “Hai chuyên luận về Chính phủ dân sự” (Two Treatises on Civil Government, xuất bản lần đầu vào năm 1690). Chuyên khảo đầu tiên (An Essay concerning certain false prinicples) nhằm chống lại Patriarcha của Sir Robert Filmer (xuất bản lần đầu vào năm 1680). Cuốn sách thứ hai có tựa đề: An Essay concerning the true original extent of Civil Government. Tư tưởng của Locke chịu ảnh hưởng nhiều bởi Hobbes. Hai chuyên luận của ông được dịch ra tiếng Pháp vào năm 1691 tại Amsterdam và nó có ảnh hưởng lớn đến Voltaire và Montesquieu trong việc xây dựng hệ thống học thuyết của hai triết gia này. Lý tưởng của Locke là một nền quân chủ ôn hòa, được kiểm soát bởi dân chúng và đảm bảo quyền tự do cá nhân của công dân, đặc biệt là quyền sở hữu. Quyền sở hữu là đối tượng của một thứ quyền tự nhiên không cần thỏa thuận, quyền này tồn tại trước khi có khế ước xã hội và được bảo đảm để chống lại các can thiệp của quyền lực chính trị . Như vậy, học thuyết của Locke không thừa nhận truyền thống luật tự nhiên “cổ điển” của Thomas Aquinas. Và đây là điểm cho thấy tầm quan trọng của John Locke trong lịch sử quyền con người. Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) là người tiên phong của triết học về quyền con người . Ông mượn một số ý tưởng của Hobbes để xây dựng ý thuyết về khế ước xã hội. Thông qua khái niệm về “trạng thái ban sơ” (état de nature), ông có một quan niệm hoàn toàn đối lập với triết học Anh: Con người sinh ra là tử tế và hòa bình, bản tính của con người thúc đẩy con người sống trong xã hội, và chính xã hội làm tha hóa con người . Quyền năng bao trùm mà Rousseau thừa nhận cho “ý chí chung” có điểm tương đồng với các biểu hiện của “sức mạnh chủ quyền” ở Hobbes và Spinoza. Được xem như học trò của Rousseau, Immanuel Kant (1724-1804) là nhà tư tưởng quan trọng nhất của triết học kỷ Ánh sáng. Ông thừa nhận sự tồn tại của Chúa và sự bất tử của linh hồn nhưng không thừa nhận mọi mưu toan chứng minh cho những gì ông tin chắc về sự thật căn bản của tinh thần. Về điểm này Kant gần với Decartes. Kant là một trong những người sáng lập quan trọng nhất của học thuyết triết học về các quyền cơ bản và ông đặt học thuyết này trong mối quan hệ với tính bất khả xâm phạm của nhân phẩm con người. Theo Kant, mệnh lệnh thực tiễn là những gì: “hành động tới mức anh đối xử với con người cũng như đối với bản thân anh và mọi cá nhân khác, luôn cùng lúc, giống như một mục tiêu chứ không bao giờ là một phương tiện” . Ý tưởng này sẽ được Kant nhắc lại một cách ngắn gọn trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” với tựa đề “luật cơ bản của lý tính thực tiễn” : “Hãy hành xử làm sao cho phương châm của ý chí anh có thể cùng lúc có giá trị như một nguyên tắc của luật pháp phổ biến” . Chúng ta có thể thấy sự giống nhau giữa của nguyên tắc vàng này với điều răn cơ bản của Chúa Jesus. Tuy nhiên, tác phẩm “Siêu hình của các phong tục và xung đột năng lực” thể hiện rõ nét hơn đóng góp của triết học Kant đối với triết lý về nhân phẩm con người. Sự tôn trọng (Achtung), mà chúng ta phải biểu hiện và chứng tỏ đối với người khác là nền tảng cho “phương châm về sự tiết chế, thông qua nhân phẩm tồn tại ở một người khác, là sự đánh giá của chính chúng ta về bản thân mình” . Kant đi xa hơn khi khẳng định phẩm cách và nhân phẩm con người: “Bản thân con người chính là nhân phẩm, thực tế con người không thể bị sử dụng bởi một ai đó đơn giản như một phương tiện, mà phải luôn được đối xử như một mục tiêu, và bằng cái đó mà tạo nên nhân phẩm của con người (nhân cách của người đó), nhờ đó con người vượt cao hơn tất cả các bản thể khác trên thế gian” . (“Và phẩm cách của anh là chính đáng (về nhân phẩm) « und darin besteht eben seine Würde (die Persönlichkeit)” . Kết luận Qua những phân tích trên, có thể khẳng định rằng tư tưởng, quan niệm triết học về quyền con người được ươm mầm từ thời Cổ đại, được nuôi dưỡng và bổ sung trong suốt chiều dài lịch sử và trở thành học thuyết vào thời kỳ Phục hưng và kỷ Ánh sáng. Tất cả tạo thành tiền đề và nền tảng dẫn đến việc thừa nhận các “quyền căn bản” bởi pháp luật thực định vào thế kỷ 17 thông qua Tuyên ngôn về các quyền của Anh 1688, thế kỷ 18 với Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp... và Emmamuel Kant là triết gia tiêu biểu nhất trong việc tạo lập nền tảng triết học về quyền con người. Ông tiếp nhận một phần di sản của truyền thống luật tự nhiên khách thể, phát triển thành học thuyết về quyền con người-nhân phẩm con người. Dĩ nhiên, Kant vẫn trung thành với những phân biệt đối xử phổ biến của thời đại ông như giữa đàn ông và phụ nữ, cũng như những cấm đoán tình dục mang tính truyền thống. Tuy nhiên, có thể kết luận rằng Kant là người thiết lập nên quan niệm về quyền con người với tư cách là một luận thuyết có hệ thống, triết học Kant là nền tảng lý luận vững chắc để bảo vệ quyền cá nhân và mối liện hệ của các quyền này với tính không thể xâm phạm của nhân phẩm con người. Như vậy, vào thế kỷ 17, luận thuyết về quyền tự nhiên có được diện mạo mới một cách triệt để với Hobbes và Spinoza. Trong khi từ thời Cổ đại và theo học thuyết được xác lập bởi Thomas Aquinas, vốn được nhiều người tán thành như Grotius và Pufendorf, quyền tự nhiên là hệ thống “quyền khách thể” vượt cao hơn luật thực định (tức các quyền được ban phát), Hobbes và Spinoza làm cho quyền tự nhiên ngả về phía các quyền chủ thể . Tồn tại một số quyền cá nhân không thể tước bỏ và có thể làm tan vỡ các thể chế của luật thực định. Như thế nền tảng triết học ban đầu của quyền con người đã được thiết lập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gabriel Albiac (1994), Les sources marranes du spinozisme, Nxb. PUF. 2. Charles Appuhn (1927), Spinoza, Paris, Nxb. André Delpeuch. 3. Denys De Bechillon, Retour sur la nature. Critique d’une idée classique du droit naturel, tap chi Images, 1993, tr. 563-587. 4. Lefort Claude (1984), Les droits de l’homme en question, tap chi Interdisciplinaire des sciences juridiques, số 13, 1984, tr.11-48. 5. Cassier Ernst (1966), La philosophie des Lumières, dịch từ tiếng Đức và giới thiệu bởi Pierre Quillet, Nxb. Fayard. 6. Bloch Ernst, Droit naturel et dignité humaine, bản dịch từ tiếng Đức của Denis Authier và Jean Lacoste, Paris, Nxb. Payot, 1976. 7. Kant, Nền tảng siêu hình của các tập quán (1785) bản tiếng Pháp, Tuyển tập các tác phẩm triết học, Nxb. de la Pleiade, tập 2, 1984. 8. Brunschvicg Léon (1951), Spinoza et ses contemporains, Nxb. PUF. 9. Israel Jonathan Ivrin (2005), Les Lumières radicales, La philosophie, Spinoza et la naissance de la modernité (1650-1750), bản dịch tiếng Pháp của Paulina Hugues, Charlottes Nordmann va Jerome Rosanvallon, Nxb. Amsterdam, Paris. 10. Suart Hampsphire (2005), Spinoza and Spinozm, Nxb. Clarendon Press, Oxford. 11. Emmanuel Kant, Nhân luân siêu hình học (Die Metaphysik der Sitten), I: Học thuyết toàn xưng về luật pháp, tập III, tr. 523-536. Emmnuel Kant toàn tập, tập III, Bản dịch tiếng Pháp, nxb. Pléiade, 1986. 12. JJ. Rousseau, Du contrat social, chương II, tập III, tr. 288. Bài viết về Abbe de St. Piere, tập III. 13. Delbos Victor (2005), Le spinozisme, Nxb. Vrin.

Không có nhận xét nào: