Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2009

Hữu tâm nhân, tựu tượng bích lô lí phác thiểm phác thiểm đích hỏa miêu, viễn viễn khán trứ đô giác đắc ôn noãn.

Người có tâm, thật giống như cái lò sưởi trong tường đang bập bùng bập bùng những ngọn lửa, đứng ngắm từ xa đã cảm nhận được sự ấm áp

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009

Tinh thàn cua nguoi TT

VViết bài này nhân dịp đội tuyển Bắc Hàn dành được suốt tham dự wc 2010.

Tinh thần của người Triều Tiên.

Bắc Hàn là một quốc gia bí ẩn, và hẳn nhiều trong đầu của đa số chúng ta là hình ảnh một đất nước bị cấm vận và khó khăn đủ bề, không khác mấy VN thời kỳ trước Đổi mới.

Ngoài những công trình xây dựng to lớn tại Bình Nhưỡng được quy hoạch một cách bài bản và quy cũ thì người ta không biết gì nhiều về đất nước này. Cũng dễ hiểu, hàng năm chỉ có khoảng vài nghìn khách du lịch phương Tây được cấp Visa du lịch nước này.

Sau 44 tham dự vòng chung kết wc, bóng đá BH trở lại với đấu trường thế giới bằng suốt tham dự vòng chung kết năm 2010 tổ chức tại Nam Phi.

Những ai ham hiểu lịch sử bóng đá thế giới đều biết tại vòng chung kết năm 1966 tổ chức tại Anh, đội tuyển TT đã làm nên kỳ tích khi đánh bại Italia và sau đó dẫn trước Bồ Đào Nha với tỉ số 3.0 trước khi bị gỡ lại 5.3. Những người hùng của đội BTT năm ấy với ký ức ngọt ngào được gợi lại trong bộ phim tài liệu của Anh mang tên « the match of life ».

Việc đội bóng Bắc Á này dành được vé tham dự wc 2010 khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi nhiều năm nay BTT chỉ được biết đến với đội tuyển bóng đã nữ ở đẳng cấp thế giới.
Thành công này cũng khiến những người làm bóng đá của các quốc gia khác phải nhìn lại cách làm bóng đá của mình, và hơn hết là cách khơi dậy quyết tâm và lòng tự hào của mỗi cầu thủ khi khoác trên mình bộ đồ tuyển thủ quốc gia.
Tờ Tin tức Quảng Châu của TQ đặt câu hỏi ngay trang nhất « Tại sao chúng ta thất bại trong khi CHDCND TT thành công, dù có cơ sở vật chất và nguồn tài chính dồi dào nhưng chúng ta lại thua kém người BTT ở phương diện ý chí, lòng dũng cảm và sự quyết tâm ».
Báo chí Nam Hàn cũng hồ hởi với việc lần đầu tiên trong lịch sử có 2 đội Triều Tiên cùng tham dự wc. Tớ Jooong Ang nhật báo ca ngợi huấn luyện viên Kim Jong Hun đã đưa đội tuyển của ông vào vòng chung kết « Đội tuyển xếp hang 106 thế giới, đã cho thấy phẩm chất của họ khi đối đầu với A rap xê út . Nhắc lại rằng BTT ghi được 7 bàn và chỉ để lọt lưới 8 bàn trong 8 trận ».
Để đến được vòng chung kết 2010 BTT đã gặp Hàn Quốc tới 4 lần, trong đó 2 lần trên sân Soeul và 2 lần trên sân trung lập Thượng Hải (TT từ chối tiếp đội HQ trên sân nhà). Và chỉ để thua đúng 1 trận. Trong trận này BTT đã ghi bàn trước sau khi số 12 đánh đầu qua vạch vôi rõ ràng nhưng trọng tài không nhìn thấy.

Trong đội hình của BTT có nhiều cầu thủ thi đấu ở nước ngoài, bao gồm các cầu thủ đang thi đấu tại giải vô địch Nhật Bản, Nga và cả Hàn Quốc. Trong đó tiền đạo số 12 Jong tae se đang chơi tại giải vô địch Nhật J Ligue. Anh được mệnh danh là « Ronaldo Bắc TT » với sức mạnh thể lực vượt trội và kỹ thuật không chê vào đâu được.
Các cầu thủ đang chơi tại Nhật bản đều là những người sinh ra và trưởng thành tại Nhật, thuộc thế hệ thứ 3, 4 có quyền chọn quốc tịch Nhật hay Hàn Quốc nhưng vẫn chọn đá cho đội BH.

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2009

Thái độ của người Trung Quốc đối với quá khứ

Tác giả: Pierre Ryckmans

Pierre Ryckmans, tác giả chuyên viết về văn hóa và chính trị Trung Quốc với bút danh Simon Leys, giới thiệu bài viết này lần đầu tiên với cái tên “bài diễn văn Morrison số 47” vào ngày 16 tháng 6 năm 1986. Phiên bản này đã được xuất bản trước đó trên “Báo lịch sử miền viễn Đông” (sau là “Lịch sử Đông Á”) vào năm 1989. Chúng tôi tái bản bài viết ở đây để xem xét di sản “Bắc Kinh, thành phố vô hình”, cũng như là một sự bổ sung vào bộ tư liệu về đề tài Hán học hiện đại.

(Lời người biên tập)

Le Tibre seul, qui vers la mer s'enfuit,
Reste de Rome. O mondaine inconstance!
Ce qui est ferme, est par le temps detruit,
Et ce qui fuit, au temps fait résistance.

Trung Hoa là nền văn mình cổ xưa nhất còn tồn tại trên trái đất. Và sự tiếp nối độc nhất như vậy hẳn nhiên bao hàm mối quan hệ phức tạp của một dân tộc với quá khứ của họ. Thực chất sâu xa của sự bền vững đáng kinh ngạc về văn hóa này dường như là một nghịch lý: đó là việc nuôi dưỡng những giá trị đạo đức và tâm linh thuộc về con người cổ đại có vẻ thường được gắn với sự thờ ơ hay bàng quan đối với những di sản vật chất của quá khứ (thậm chí là ngay cả trong thời kì những tín ngưỡng lâu đời bị đả phá một cách mạnh mẽ nhất). (Dù bản thân sự tiếp nối về tinh thần bất chấp hay nhờ có sự tàn phá một phần những tư liệu vật chất của truyền thống là một vấn đề khác, nó cũng sẽ được đề cập một cách sơ lược sau đây)???

Bài viết này nhằm khám phá sơ bộ hiện tượng gìn giữ thế giới tinh thần đồng thời với việc tàn phá các yếu tố vật chất đã được quan sát trong suốt tiến trình lịch sử nền văn hóa Trung Hoa. Chủ đề thì vô cùng, vì thế ở đây tôi sẽ chỉ vạch ra một vài định hướng và đề tài cho những nghiên cứu sâu hơn. Ở mức độ này, tôi chỉ đơn thuần định hình vấn đề chứ không nhằm hướng tới việc đưa ra một giải pháp cụ thể nào.

Sự hiện hữu của giá trị tinh thần và thiếu vắng các yếu tố vật chất gắn với quá khứ ở Trung Quốc.

Trong cuốn tự truyện của mình, Carl-Gustav Jung đã diễn giải lý do vì sao ở cái độ tuổi già cả như vậy ông lại mong mỏi được tới thành Rome, nơi ông chưa bao giờ đặt chân tới. Ông cứ trù trừ hết lần này tới lần khác do e sợ mình sẽ không chịu đựng nổi niềm xúc động khi được diện kiến cái thực thể sống của nền văn hóa cổ đại Âu Châu. Cuối cùng, ông đã bị ngất đi và bất tỉnh trong phút chốc khi bước vào 1 đại lý du lịch ở Zurich để mua vé. Sau trải nghiệm này, ông đã có 1 quyết định sáng suốt là từ bỏ kế hoạch đó và ông không bao giờ được tận mắt chiêm ngưỡng thành Rome nữa. Hầu hết các nhà Hán học đều không được phú cho một độ nhạy bắt sóng như ông Zung, và cho dù có tinh nhạy được như thế đi chăng nữa thì cũng khó cho những người nghiên cứu về Trung Quốc cổ điển có thể tiếp cận Trung Quốc hiện đại ngày nay mà không quá đỗi xúc động hay xâm chiếm bởi tinh hoa lạ thường dường như tỏa ra từ khắp nơi ở một vùng đất quá đỗi gắn bó với lịch sử này.

Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của quá khứ ở đất nước Trung Quốc; đôi khi là ở những địa điêm không ngờ nhất, nơi có số lượng khách viếng thăm dày đặc: những tấm áp phích ở rạp chiếu phim, quảng cáo máy giặt, tivi hay kem đánh răng được bày dọc những con phố được viết bằng thứ ngôn ngữ hầu như không biến đổi gần 2 ngàn năm nay. Trong nhà trẻ, những đứa bé còn đang tập đi, miệng hát ê a bài thơ Tang ra đời khoảng 200 năm trước. Ở các nhà ga, những nhân viên tư vấn lịch trình tàu chạy đơn thuần cũng có thể là một trải nghiệm làm sững sờ bất cứ một nhà sử gia văn hóa nào: trí tưởng tượng bị nhào trộn bởi danh sách dài những thành phố vốn gắn với những thời kỳ huy hoàng của các triều đại trong quá khứ.Hay một lần nữa xuất hiện trong bối cảnh đặc trưng gần đây, các nhà khảo cổ học đã khám phá ra trong 1 ngôi mộ 2 ngàn năm tuồi, giữa những loại thực phẩm đã được chôn cùng người chết là một loại bánh nhân thịt (bánh bao) giống y như nó vẫn đang được bày bán ở các cửa hàng góc phố ngày nay. Và chúng ta có thể lấy vô số ví dụ tương tự như vậy.

Nhưng đồng thời, nghịch lý lại là cái quá khứ mà dường như thâm nhập và biểu thị với một sức sống đáng kinh ngạc như vậy, cũng vượt khỏi sự nhận biết về mặt vật chất của chúng ta một cách kì lạ. Vẫn cái đất nước Trung Hoa vốn giàu về lịch sử và các hồi ức này kì quặc thay lại thiếu vắng bóng dáng những công trình cổ đại. Sự vắng mặt các yếu tố vật chất liên quan tới quá khứ trong phong cảnh đất nước Trung Hoa có thể là yếu tố làm lúng túng những người thực dân (khai hóa) phương Tây, đặc biệt là nếu họ tiếp cận Trung Quốc với những tiêu chí và chuẩn mực được hình thành một cách tự nhiên trong môi trường Âu Châu. Tại Châu Âu, dù phải trải qua vô số cuộc chiến tranh và tàn phá, mỗi thời đại đều để lại một số lượng đáng kể những mốc giới hạn (ranh giới) các công trình kỉ niệm: những tàn tích của Hy Lạp và La Mã cổ đại, tất cả những thánh đường lớn thời trung cổ, các nhà thờ (giáo đường) và lâu đài của giai đoạn Phục Hưng, những công trình của kỉ nguyên Ba rôc; tất cả những cái này tạo nên một chuỗi các chứng tích kiến trúc liên tục góp phần duy trì, làm sống mãi những hồi ức của quá khứ ngay tại trung tâm những thành phố hiện đại của chúng ta. Ở Trung Quốc thì lại ngược lại, nếu trừ đi một lượng nhỏ những khúc đồng diễn nổi tiếng mà mức độ cổ xưa của chúng là tương đương thì điều gây ấn tượng với những du khách có học thức là sự thiếu vắng những công trình kỉ niệm của quá khứ. Hầu hết các thành phố Trung Quốc, bao gồm và đặc biệt là những thành phố vốn là thủ phủ cũ hoặc trung tâm văn hóa có uy tín trong lịch sử, ngày nay thể hiện những khía cạnh mà có thể ko chính xác là cái mới hay hiện đại (bởi vì nếu hiện đại hóa là cái đích mà TQ đang hướng đến thì vẫn còn một quãng đường dài trước khi nó có thể đạt tới) nhưng dường như lại thiếu vắng những đặc điểm truyền thống. Tóm lại, chúng có vẻ như là một sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa cuối thế kỉ 19. Vì thế, cái quá khứ mà vẫn tiếp tục tạo sức sống trong đời sống người TQ bằng những cách thức nổi bật, bất ngờ và hết sức tinh tế, dường như tồn tại trên mỗi con người hơn là gạch đá. Lịch sử TQ vừa thực sự thuộc về yếu tố tinh thần lại vừa vô hình về mặt vật chất.

Cần phải lưu tâm rằng, khi đề cập tới sự phá hủy các yếu tố vật chất gắn với quá khứ, tôi không có ý lại đề cập 1 lần nữa tới sự tàn phá rộng khắp và có tính hệ thống do cuộc “Cách mạng văn hóa” gây ra. Trong những năm cuối thời Mao, sự tàn phá này đúng là dẫn tới sa mạc văn hóa theo nghĩa đen của nó, ở vài thành phố, 95 cho tới 100% những di tích lịch sử và văn hóa đã biến mất vĩnh viễn. Tuy nhiên, lại phải nói rõ ngay rằng, nếu tại nhiều thành phố, các băng nhóm học sinh có thể cướp bóc, thiêu trụi và san bằng gần như toàn bộ các di tích cổ thì trong trường hợp cá biệt này, đó là do chẳng còn lại nhiều cho chúng tàn phá. Quả thực, có rất ít công trình còn tồn tại được sau cái thảm họa lịch sử ban đầu đó, và kết quả là những kẻ chuyên đi phá hoại các công trình văn hóa (do ác tâm hoặc ngu dốt) chả có mấy mục tiêu để mà bỏ sức. Trong cái bối cảnh này, việc nhìn nhận cuộc “Cách mạng văn hóa” như một sai lầm ngẫu nhiên có thể là mốt sơ suất. Nếu đặt lại nó vào một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, thực ra nó dường như là biểu hiện gần nhất của cái hiện tượng đả phá tín ngưỡng nghiêm trọng cổ xưa mà đã tái diễn trong suốt các thời kì lịch sử. Không phải trở về với lịch sử xa xôi nào, cuộc nổi dậy Taiping vào giữa thế kỷ 19 đã tàn phá một cách trầm trọng hơn nhiếu so với cuộc “Cách mạng văn hóa”. Về sau, tôi sẽ còn trở lại với câu hỏi vể sự tàn phá có tính chu kỳ các di sản vật chất có liên quan tới quá khứ mà dường như đã trở thành đặc trưng của lịch sử đất nước Trung Hoa này.

Do đó, sự thiếu vắng gây bối rối những cảnh quan công trình lịch sử của Trung Quốc không thể đơn thuần nhìn nhận như là kết quả của những năm tháng hỗn loạn thời Mao Trạch Đông. Đặc trưng đó còn có tính chất lâu dài và sâu xa hơn nữa, và nó đã thực sự gây ấn tượng(chú ý) đối với những du khách Châu Âu vào những năm thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Riêng về mặt này, tôi cho rằng khó mà tìm được nhân chứng nào có tư cách và cởi mở hơn Victor Segalen (1878-1919), một nhà thơ đặc biệt, người vừa là nhà Hán học vừa là nhà khảo cổ học với nhiều thành tựu đáng kể. Ông đã ở Trung quốc vài năm vào thời điểm kết thúc của đế chế (giai đoạn kiểm soát) và tiến hành 2 cuộc hành trình khảo cổ dài vào những tỉnh vùng sâu xa hơn nữa của nội địa. Trong bài thơ tản văn “Aux Dix mille années” (1912), ông đã tổng kết lại một cách dễ nhớ cái nghịch lý mà tôi cho là nguyên nhân thái độ của người TQ đối với quá khứ của mình (Thực sự thì toàn bộ bài viết của tôi được khơi nguồn từ bài thơ này, và điều mà tôi đang cố làm ở đây chỉ là đưa ra 1 lời bình (nhận xét) cho nó).

Bài thờ của Segalen là một sự suy ngẫm về mối liên hệ giữa nền văn hóa Trung Hoa và thời gian. Mở đầu là sự gợi lên tương đối những nguyên tắc kiến trúc của các nền văn mình vĩ đại trong quá khứ và đối lập chúng với quan niêm của người Trung Quốc. Những quan điểm phi Trung Quốc (từ những quốc gia khác TQ), từ Ai Cập cổ đại cho tới phương Tây hiện đại về cơ bản là những nỗ lực chủ động,xông xáo nhằm thách thức và vượt qua sự tàn phá, bào mòn của thời gian. Họ có tham vọng kiến lập nên sự vĩnh cửu thông qua việc sử dụng những vật liệu bền chắc nhất có thể và những kỹ thuật mà đảm bảo được mức độ đàn hồi (linh hoạt?) tối đa. Nhưng dù có làm thế đi chăng nữa, những nhà kiến trúc (người thi công?) chỉ đang cố trì hoãn sự thất bại không thể tránh khỏi của mình mà thôi. Ngược lại, người Trung Quốc đã nhận thức được – như trong những lời thơ của Segalen – “nothing immobile can escape the hungry teeth of the ages” (ko một thực thể không hoạt động hay bất động? nào có thể thoát khỏi những chiếc răng háu đói của thời gian). Vì thế những kỹ sư xây dựng người TQ mà chịu khuất phục trước sự tấn công của thời gian làm chệch hướng của nó tốt hơn.

Những suy ngẫm của Segalen được hình thành từ những dữ liệu chính xác về mặt kỹ thuật: những công trình kiến trúc Trung Hoa thực sự được làm từ các vật liệu mỏng manh và dễ hỏng, chúng bao gồm cả 1 kiểu ”lỗi thời cố hữu”, chúng nhanh chóng bị hư hỏng và cần phải xây lại thường xuyên. Từ những quan sát thực tế này, ông rút ra một kết luận có tích chất triết học: người Trung Quốc đã thực sự chuyển đổi được vấn đề: sự vĩnh cửu không nên tồn tại ở các công trình mà nên sống trong những người xây dựng chúng.Trạng thái nguyên thủy ngắn ngủi nhất thời của công trình kiến trúc giống như một món tặng phẩm cho sự phàm ăn của thời gian, và vì cái giá phải trả cho những sự hi sinh như vậy, các nhà kiến tạo cần phải đảm bảo tính bất diệt của các thiết kết thuộc về yếu tố tinh thần.

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009

Sách với vở.

Hồi trước đọc sách thấy kể chuyện mấy ông trí thức Tây học về nước theo cụ Hồ phải mang theo mấy tấn sách để làm tài liệu.
Công nhận nếu thế thật thì các bố ấy quá giàu đi. 1 quyển sách cho là nặng 1kg đi,1Kg là loại sách phải hơn 600trang chứ không ít. Thế thì vài tấn sách tức là mấy nghìn quyển sách. Theo thời giá hiện tại là mỗi quyển cũng mấy chục €. Vì loại sách văn học khá rẻ sau nhiều lần xuất bản nên tiền bản quyền giảm theo, chứ sách khoa học thì in số lượng ít nên bán đắt. Vạy 40€X vài nghìn quyển thì các cụ ấy phải mất gần trăm nghìn € mua sách.

Ngày nay với sự phổ cập của internet thì chẳng ai điên mang cả tấn sách về quê cả. Tiền phí gửi cũng chết tiền rồi. Bây giờ có thể đọc được rất nhiều sách trên mạng dưới dạng ebook. Ngoài sách ra còn vô số tạp chí bài báo. Tất nhiên không phải lúc nào cũng free nhưng nói chung là đọc hết đống free thì cũng ốm.

Đó là sách về tri thức phổ thông nói chung, chứ sách chuyên ngành khoa học thì trên mạng không có nhiều lắm. Vì chuyên ngành càng sâu thì càng ít người nghiên cứu và đọc, bởi thế nhu cầu là không nhiều nên chẳng mấy ai up lên mạng cả.
Đúng ra thì trên ebook của google có cực nhiều sách, kể cả chuyên ngành. Ví dụ như sách bằng tiếng Pháp thì 80% số sách mình cần tìm đều có thể kiếm ở google, trừ những quyển nào mới ra thì chưa có. Tuy nhiên đọc trên máy tính rất đau mắt, đặc biệt là bọn google không up toàn bộ mà thường chỉ môt phần, đôi lúc thiếu vài ba trang đang đọc tức như bò đá.

Ngoài google ra thì còn có nhiều trang web khác khá phong phú. Tuy vậy vẫn không thể nói là đầy đủ được, đặc biệt là các publication mới thường chưa kịp up. Mà khoa học thì luôn cần cập nhật, đặc biệt là về khoa học xã hội, chứ không cứ hùng hục nghiên cứu cả năm rồi mới ngã ngửa ra là cái mình làm đã có thằng làm cả chục năm trước.
Nói thêm là tình trạng khoa học của Vn rất phò phạch, nhưng phò phạch nhất là các ngành khoa học xã hội. Các giáo sư với chuyên gia rất là lười đọc sách, một phần là không chú tâm, thứ 2 là không thạo ngoại ngữ nào để có thể đọc tài liệu thoải mái, mà thạo ngoại ngữ thì làm giáo sư làm cóc gì cho nghèo, đi làm phiên dịch hay làm cho NGO mau kiếm tiền hơn. Bởi tình trạng này mới có chuyện là nhiều hội thảo các bác giáo sư cãi nhau chí chóe về những khái niệm thuộc loại sơ đẳng nhất của chuyên ngành.
Nói chung để viết báo và làm nghiên cứu bên lĩnh vực khoa học xh mà không rành một trong các ngoại ngữ phổ biến (ANh, Pháp, Trung, Tây Ban NHa, Nga, Đức và có thể cả Nhật nữa) thì nghiên cứu lịch sử Đảng là hợp nhất, vì kiến thức khoa học bằng tiếng Việt thực sự rất khiêm tốn mà nhiều khi không chính xác và cập nhật.


Không phải sách nào cũng tìm được bản online, thậm chí thư viện cũng khó tìm mặc dù hệ thống thư viện của Pháp phải nói là vĩ đại, sẽ kể về nó khi nào rỗi. Cho nên thấy quyên nào hay mình phải scan ngay. Nhưng scan lâu quá, nên bây giờ dùng máy ảnh chụp luôn rất nhanh tuy chất lượng ko tốt bằng scan. Nhưng dung lượng bé và nhanh. Một quyển sách 900 trang hôm trước thử chụp mất không đến 1h.
CHụp lại sau đỡ phải mượn thư viện khi cần tra cứu, thêm nữa sau về Vn làm gì có cơ hội mà kiếm sách, và tiếp là nếu ai cần tài liệu có thể chia sẽ. hihi

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2009

Lịch sử và chính trị

Viết luận văn tìm tài liệu tình cờ vào trang web của 1 ông giáo sư dạy cấp 3 của Pháp. Thật là kinh khủng, giáo viên cấp 3 mà có học vị tiến sĩ (đa số giáo viên cấp 3 ở Pháp đều có bằng Ph.D hoặc kém lắm thì cũng master, tất nhiên trừ các ông giáo viên dạy thể dục), xuất bản hàng chục quyển sách và công bố cả trăm bài báo nghiên cứu. Hơn đứt bất kỳ học giả nào của Việt Nam.
http://denis-collin.viabloga.com/
Đặc biệt ông này nghien cứu rất nhiều về chủ nghĩa Marx, nhưng món này mình không quan tâm và ngán tận cổ, chỉ đọc những gì ông ấy viết về lịch sử và chính trị thôi.

Đã đăng kí theo dõi blog của cụ, lúc nào rỗi sẽ đọc dần dần.

Nói chung viết sách như các "học giả" xôi thịt nhà mình thì mỗi tháng mình tập trung chắc viết được 1 quyển. he he. Sau này lấy vợ sẽ xin tiền vợ in sách mình viết, không ai đọc thì cũng giúp cho ma'y bà bán xôi đầu phố đỡ phải mua giấy.

"On peut dire que la science historique se construit d’abord par une patiente déconstruction de la mémoire. J’en donne quatre traits essentiels.

1. La mémoire est subjective. Elle s’inscrit toujours dans un vécu de conscient. La mémoire est ma mémoire. L’histoire vise l’objectivité. L’histoire n’est pas mon histoire, elle est posée comme existence extérieure à la conscience. La mémoire historique est toujours notre mémoire. Notre mémoire de l’histoire de France n’est pas la mémoire de l’histoire de France de nos voisins et réciproquement ! Au contraire, l’histoire implique un décentrement du regard. Ce qu’on appelle objectivité, qui est la possibilité de se changer de point de vue, de ne pas être soumis à un point de vue particulier.

2. La mémoire présuppose l’oubli comme son indispensable complément. Je ne peux me souvenir qu’en sélectionnant ce qui doit être oublié. La mémoire collective fonctionne, elle aussi, à l’oubli. On perçoit couramment l’oubli comme un pur négatif, un manque de mémoire. Mais l’oubli est comme le fond nécessaire à partir duquel peut émerger la mémoire. L’oubli est même parfois commandé, par exemple pour des raisons politiques, religieuses, etc. L’histoire (comme la psychanalyse !) vise à faire revenir l’oublié.

3. La mémoire s’inscrit dans un récit. La mémoire individuelle est ce par quoi l’individu constitue sa propre identité. Elle est entièrement pensée à partir du présent – la mémoire, c’est toujours le passé au présent. Il en va de même de la mémoire collective. Ce dont les communautés historiques gardent la trace, c’est qui constitue encore le présent. Ce qui disparaît de la mémoire collective, c’est ce qui n’a plus cours. Dans les deux cas, la mémoire est orientée dans un récit dont la fin est connue. Elle est donc nécessairement téléologique : la vérité des événements passés réside dans le présent. La science historique, dès qu’elle se veut véritablement scientifique, doit sortir du récit, précisément parce qu’elle doit sortir de la téléologie, de l’histoire orientée vers une fin idéale, c'est-à-dire, en réalité, de l’interprétation du passé en fonction du présent.

4. La mémoire ne se soucie que de l’enchaînement temporel des images – elle s’identifie à notre conscience intime du temps. Il en va de même avec la mémoire collective qui fonctionne par images (" les images d’Épinal !) L’histoire, au contraire, s’intéresse à la causalité. Les faits et les événements doivent apporter une intelligibilité de l’ensemble du processus historique.

Je sais bien que je dresse ici un portrait idéal de la science historique. Paul Ricoeur a longuement discuté des limites de la scientificité de l’histoire. Pour lui, en dépit des efforts de l’historiographie moderne, l’histoire ne peut s’émanciper du récit. La question de la causalité en histoire reste très largement en suspens. Nous savons bien que l’histoire ne se pense pas comme les sciences de la nature. Nous savons bien que les " lois " de l’histoire n’ont pas grand chose à voir avec les lois de la physique. Je suis même prêt à reprendre à mon compte la distinction de Dilthey entre sciences nomologiques et sciences herméneutiques et à placer l’histoire dans le camp de ces dernières. Mais cette séparation, si elle est fondée sur de bons arguments, n’émancipe pas pour autant l’histoire des exigences qui s’imposent aux sciences de la nature, même si " l’obligation de résultat " ne peut jamais être du même ordre.

Donc, la science historique ne peut que se placer dans une perspective de compréhension rationnelle et d’objectivité, cette perspective qui distingue radicalement le livre d’un historien d’un roman historique – sans que je veuille ici dévaloriser le roman historique comme genre littéraire. Certes l’histoire ne peut échapper au conflit des interprétations, mais la vérité scientifique reste son idéal régulateur.

Mémoire et histoire selon Pierre Nora

Cette opposition entre histoire et mémoire, Pierre Nora en fait le thème introducteur de ses " Lieux de mémoire ". Mais avec une forte connotation péjorative. Je voudrais en commenter quelques passages.

" Mémoire, histoire : loin d'être synonymes, nous prenons conscience que tout les oppose. La mémoire est la vie, toujours portée par des groupes vivants et à ce titre, elle est en évolution permanente, ouverte à la dialectique du souvenir et de l'amnésie, inconsciente de ses déformations successives, vulnérable à toutes les utilisations et manipulations, susceptible de longues latences et de soudaines revitalisations. L'histoire est la reconstruction toujours problématique et incomplète de ce qui n'est plus. La mémoire est un phénomène toujours actuel, un lien vécu au présent éternel ; l'histoire, une représentation du passé. Parce qu'elle est affective et magique, la mémoire ne s'accommode que des détails qui la confortent ; elle se nourrit de souvenirs flous, télescopants, globaux ou flottants, particuliers ou symboliques, sensible à tous les transferts, écrans, censure ou projections. L'histoire, parce que opération intellectuelle et laïcisante, appelle analyse et discours critique. La mémoire installe le souvenir dans le sacré, l'histoire l'en débusque, elle prosaïse toujours. La mémoire sourd d'un groupe qu'elle soude, ce qui revient à dire, comme Halbwachs l'a fait, qu'il y a. autant de mémoires que de groupes ; qu'elle est, par nature, multiple et démultipliée, collective, plurielle et individualisée. L'histoire, au contraire, appartient à tous et à personne, ce qui lui donne vocation à l'universel. La mémoire s'enracine dans le concret, dans l'espace, le geste, l'image et l'objet. L'histoire ne s'attache qu'aux continuités temporelles, aux évolutions et aux rapports des choses. La mémoire est un absolu et l'histoire ne connaît que le relatif. "

Jusqu’ici, je crois que l’opposition entre histoire et mémoire est correctement perçue. Mais la suite pose plus de problèmes.

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2009

远方很远

Phương xa quá xa mà lòng người thì bề bộn với những lo toan.