Thứ Tư, 31 tháng 12, 2008

Cải tạo Ba lê dự án

Du khách đến Paris ai cũng gắng một lần bước lên tầng cao nhất của tòa tháp Eiffel uy nghi sừng sững với độ cao 324 mét để tận mắt chiêm ngưỡng toàn cảnh thủ đô nước Pháp, dù có phải chờ cả tiếng đồng hồ xếp hàng dài mua vé. Trong cái giá lạnh của một ngày mùa đông cuối năm, tôi đã hòa mình vào dòng người nô nức cùng đi thang máy lên tầng 3 của tháp, ngắm nhìn kinh đô ánh sáng huy hoàng vào buổi chiều tàn và rực rỡ lung linh khi màn đêm buông xuống. Khách viếng thăm đủ mọi quốc tịch, màu da và ngôn ngữ nhưng chắc chẳn ai cũng đều thôt lên một từ "tuyệt vời" khi ngắm nhìn toàn cảnh Paris từ trên cao.

Paris hấp dẫn du khách bốn phương bởi những đại lộ dài hun hút, những tượng đài, cung điện và công trình kiến trúc hoành tráng mà vô cùng tinh tế. Tất cả kết hợp với nhau hài hòa như bức tranh của một nghệ sỹ tài hoa. Nhìn toàn cảnh Paris từ trên tháp Eiffel mới thấy được sự kì vĩ và duyên dáng của Paris mà không một thành phố nào trên thế giới này có được. Trước khung cảnh tráng lệ say đắm lòng người ấy, ít ai biết được rằng giữa thế kỉ 19, Paris vẫn chỉ là một thành phố mang hơi hướng Trung cổ, một thành phố đậm nét tương phản với những tượng đài kỷ niệm duyên dáng, những công trình lịch sử nằm kề bên các khu nhà ổ chuột. Đó là kết quả của hàng thế kỷ phát triển tùy tiện. Thành phố rất đông đúc vì có quá nhiều dân nhập cư từ các tỉnh tìm đến sinh sống. Paris ngày ấy vẫn chỉ là một thành phố nhỏ ở Châu Âu, không có gì đáng để so sánh với Maldrid, Lisbon và càng không thể đứng ngang hàng với London của đế quốc Anh hùng mạnh.

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một cách công bằng rằng ngay từ thế kỷ 17, người ta đã bước đầu tạo nên những nền móng đầu tiên của Paris ngày nay bằng việc ban hành các quy chuẩn căn bản, chặt chẽ và khắt khe về quy hoạch và xây dựng. Thật là khó tin là ngay từ thời đó, với Chỉ dụ năm 1607 và Sắc lệch 1667, chính quyền thủ đô đã thiết lập nên những quy chuẩn đầu tiên về quy hoạch và quản lý đô thị ở Paris. Trong đó, có những quy tắc vẫn còn được áp dụng tới tận ngày nay như giới hạn về chiều cao của tòa nhà mặt phố hay xử lý những tòa nhà mặt phố nhô ra nhằm tạo ra những dãy phố dài và ngăn nắp.

Có thể thấy rằng công tác quy hoạch hiệu quả chỉ có thể được đảm bảo bằng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, công minh về quy hoạch và kiến trúc, dựa trên tinh thần thượng tôn pháp luật.

Dù vậy, bộ mặt của Paris thực sự thay đổi và mang dáng dấp của một kinh đô diễm lệ quyến rũ khách thập phương hôm nay chỉ thực sự có được nhờ dự án cải tạo Paris thời Đệ nhị đế chế. Dự án này, hay còn gọi là các công trình Haussmann, là dự án tái quy hoạch và hiện đại hóa thủ đô Paris của Pháp thời Napoléon đệ tam. Dự án lớn này được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 1852 đến năm 1870, dưới sự phụ trách của tỉnh trưởng tỉnh Seine, nam tước Georges Eugène Haussmann.

Xin được nói thêm một chút về Nam tước Georges - Eugene Haussmann, vốn nổi tiếng là nhà quản lý đô thị lỗi lạc của nước Pháp. Các thành phố ông từng làm quản lý như Bordeaux đều được ghi dấu bằng những công trình kiến trúc tuyệt vời có giá trị đến tận ngày nay, điển hình là khu quảng trường Bourses ở trung tâm Bordeaux được Unesco xếp hạng di sản thế giới. Nhờ tài năng và uy tín đó mà ông được Hoàng đế Louis Napoleon, tức Napoleon đệ tam, bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh Seine (trong đó có Paris) vào tháng 6 năm 1853.

Napoleon đệ tam đã giao trọng trách quy hoạch lại Paris cho Haussmann, đồng thời cho phép vị tổng công trình sư này được toàn quyền hành động với các khoản tài trợ rộng rãi đến từ chính phủ và các nhà băng.

Dự án của Haussmann bao trùm lên tất cả các khía cạnh về quy hoạch đô thị của Paris như kiến trúc đô thị, đường phố, không gian xanh, hệ thống dẫn và thoát nước. Dự án này được thực hiện ở cả vùng trung tâm Paris lẫn các khu vực ngoại ô.

Tuy gặp phải một số chỉ trích vào thời gian thực hiện nhưng cùng với thời gian, dự án quy hoạch của Haussmann đã cho thấy hiệu quả lớn khi biến thành phố Paris từ một đô thị cổ, đường phố chật hẹp, trở thành một đô thị hiện đại với các đại lộ lớn và những quảng trường thoáng đãng. Không chỉ làm nên bộ mặt mới của Paris ngày nay, những cải tạo của Haussmann còn là một kho báu cho các kiến trúc sư, các nhà quy hoạch đô thị và sử gia nghiên cứu và học hỏi.

Napoleon đệ tam và Haussmann đã cùng thảo ra một kế hoạch lớn nhằm cải biến Paris theo nguyên tắc: xây dựng những đại lộ có cây xanh và các khối nhà ở, công thự dọc hai bên đường; những đại lộ thẳng tắp này tỏa ra từ trung tâm và những đường phố cũng được tạo ra để nối liền các quận nội đô, từ đó giải quyết vấn đề giao thông trong thành phố.

Haussmann đã thực sự chuyển trung tâm Paris về phía Tây Bắc, từ đó xây những đại lộ rộng lớn, thẳng tắp và kiên quyết xóa bỏ mọi chướng ngại nằm trên những con đường đã được duyệt theo kế hoạch. Ông đã phá hủy hàng nghìn khu nhà lụp xụp và cũ kỹ (trong đó có cả ngôi nhà ông đã sống thời thơ ấu) và điều hàng vạn dân cư ra khỏi trung tâm thành phố để xây các đại lộ, công viên, nhà thờ, nhà hát, quảng trường rộng lớn … Chính nhờ có nhãn quan và tinh thần quyết liệt ấy mà ngày nay, Paris mới ngẩng cao đầu kiêu hãnh về những công trình kỳ diệu như Quảng trường Concorde, Quảng trường Trocadero và Đại lộ Champs Elysée

Một thành tựu to lớn khác của Haussmann là đã xây dựng được hệ thống cống rãnh thoát nước hiện đại nhất lúc bấy giờ, tạo ra bầu không khí trong lành, xóa bỏ được những bãi sình lầy gây dịch tả và những ngõ hẻm chật cứng người của Paris thời đó.

Trong khoảng 15 năm (1853-1868), Haussmann đã gần như hoàn tất các kế hoạch đầy tham vọng của mình: biến Paris từ một đô thành trung cổ, xấu xí và bẩn thỉu thành một thủ đô hiện đại, lộng lẫy, với những đại lộ thẳng tắp chạy xuyên qua thành phố. Dọc theo những đại lộ ấy mọc lên những nhà hát, nhà thờ mới, nhà ở cao tầng cùng rất nhiều công viên tươi đẹp. Hệ thống cấp thoát nước và khí đốt cũng được xây dựng và hiện đại hóa.

Để có được kỳ công về mặt quy hoạch và kiến trúc đó, không thể không nhắc đến vai trò trọng yếu của hệ thống quy chuẩn về kiến trúc đô thị mà những người khởi xướng dự án đặt ra. Tuy bị chỉ trích mạnh mẽ vào thời đó nhưng giá trị và tầm quan trọng của hệ thống quy chuẩn này là điều mà ngày nay ai cũng phải thừa nhận. Chẳng hạn, Sắc lệnh ngày 26 tháng 3 năm 1852 đã đưa ra các công cụ luật pháp giúp xúc tiến dự án cải tạo của Haussmann, với những nội dung căn bản như:

· Quyền trưng dụng "vì mục đích sử dụng công", theo đó chính quyền được phép trưng dụng các toà nhà nằm dọc những con đường được dự kiến xây dựng. Quyền này đã cho phép Haussmann phá sạch một phần đáng kể Île de la Cité để xây dựng lại, đồng thời bắt buộc chủ của những ngôi nhà này phải tu sửa mặt tiền ngôi nhà của họ theo kì hạn 10 năm một lần.

· Quy định về độ cao chuẩn cho các con đường, quy định về thiết kế nhà, về chỗ nối giữa hệ thống đường ống nước thải.

Tiếp đó là quy định về đô thị hóa năm 1859 cho phép mặt tiền các tòa nhà chỉ được cao tối đa 20 m trong những con phố rộng 20 m của Haussmann đang xây dựng (trước đó chiều cao tối đa là 17,55 m). Các mái nhà phải được làm nghiêng một góc 45 độ. Mặt tiền các đơn vị nhà nằm trên cùng một con phố cũng phải tuân thủ theo cùng một kích thước.

Chính tài năng quy hoạch kiến trúc lỗi lạc cùng với tầm nhìn vượt thời đại của những con người như Haussmann đã làm nên một Paris hoành tráng nhưng không kém phần diễm lệ ngày nay. Xa xa nhìn từ tầng 3 của tháp Eiffel là một quảng trường lớn bao quanh Khải hoàn môn, mang tên Quảng trường Ngôi sao, từ đó tỏa ra các đại lộ tráng lệ rộng lớn như những cánh lung linh của một ngôi sao, biến Paris trở thành một trong những kinh thành đẹp và lãng mạn nhất địa cầu. Một trong những đại lộ tuyệt đẹp ấy mang tên Haussmann, người có công lớn trong việc xây dựng nên kinh đô ánh sáng. Lịch sử sẽ còn nhiều biến động, những con đường rồi cũng có thể thay tên, nhưng công lao của Haussmann với Paris thì sẽ còn lưu giữ mãi trong trái tim của hàng triệu triệu người yêu mến thành phố này.

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2008

ИСЧЕЗЛИ СОЛНЕЧНЫЕ ДНИ

ИСЧЕЗЛИ СОЛНЕЧНЫЕ ДНИ

Расул Гамзатов

Исчезли солнечные дни,

И птицы улетели,

И вот одни проводим мы

Неделю за неделей.

Вдвоём с тобой, вдвоём с тобой

Остались ты да я.

Любимая, любимая,

Бесценная моя!

На косы вновь твои смотрю,

Не налюбуюсь за день.

Птиц улетевших белый пух

Пристал к отдельным прядям.

Пусть у меня на волосах

Лежит, не тая, снег...

Но ты, моя бесценная,

Как прежде, лучше всех.

Все краски вешние неся,

Вернутся снова птицы,

Но цвет волос, но цвет волос

С весной не возвратится.

И солнцу улыбнёмся мы,

Печали не тая.

Любимая, любимая,

Бесценная моя!

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2008

Noel trên tàu

C'est la fin de l'hiver, le début du printemps...
Chiều 24.12 gare Lyon Part Dieu chật kín người hối hả cho kịp những chuyến tàu cuối cùng mong về nhà sớm gặp mặt gia đình truớc lúc ngày mới bắt đầu.
Khác hẳn những chuyến đi thường ngày, hành khách chiều nay ai cũng nặng trĩu những valise và túi xách, không khí nhà ga lúc này khiến người ta nhớ đến cảnh sân ga những ngày cuối năm ở Việt Nam, cái thời của chàng sinh viên trẻ tuổi mang trong mình lắm tin yêu và ước mơ.
Cũng không khí lạnh buốt của những ngày cuối năm, của thời khác mùa đông chưa qua hẳn mà xuân thì cũng như mới e ấp nơi đầu ngõ, cũng là những sân ga chật ních nguời với những nụ cuồi rạng rỡ trên khuôn mặt vì sắp được đoàn tụ gia đình và người thân. Tất nhiên là không thể có những cành đào cành mai trên những chuyến tàu tốc hành vào ngày này thay vào đó là hình ảnh những cái ôm hôn siết chặt chào tạm biệt của ngừoi ra đi và người ở lại.
Chợt nhớ mùi hương trầm ngày tết một cách da diết, cái mùi hương ấm áp mà từ 4 năm nay chỉ còn lưu giữ nơi tâm tưởng- mùi của ngày Tết, của mùa xuân và niêm vui đoàn tụ trong tình gia đình và bè bạn.
Bước vào quán cafe nhỏ trong nhà gare Lyon làm 1 cốc cafe cho tỉnh táo để ngắm nhìn đoàn người ngược xuôi và chờ tàu về Montpellier đến nhà người bạn cũ đón thêm một Noel xa nhà.


Bạn thân yêu ơi,
Đêm Noel cũng xa nhà bạn làm gì, có chợt nhớ đến mình chút nào không?
Từ lâu lắm tớ không còn là người mơ mộng với những lãng mạn nơi trái tim nhưng giờ phút này đây ngồi cuộn tròn ấm áp trên một chuyến TGV và viết những dòng này lên cuốn sổ tay cũ kỹ, tớ chợt nhớ đến bạn rất nhiều và mộng mơ ước rằng chúng mình chỉ cách nhau chỉ vài giờ đi tàu, để mình có thể đến bên bạn trong đêm Noel lạnh giá, thứ lạnh lẽo không chỉ bởi đất trời mà nơi thẳm sâu nhất của trái tim.

Tàu sắp tới Nimes, thành phố cách không xa Montpellier,qua cửa sổ con tàu chạy với vận tốc trên 200km/h tớ như chợt nhìn thấy khuôn mặt của bạn, và trên khuôn mặt ấy tới tìm thấy được hình bóng và hơi ấm từ quê hương xa xôi.

Nimes, 17h 30 ngày 24.12.2008

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2008

Hãy giữ những khoảng không quý giá còn lại của HN

Bài dang tren Vietnamnet


Có thể coi dự án xây dựng trung tâm thương mại ở vị trí chợ 19-12 là một minh chứng cho kiểu làm quy hoạch thiếu đồng bộ và tiền hậu bất nhất của những người làm công tác quy hoạch. - Ý kiến của một nhóm kiến trúc sư.
TIN LIÊN QUAN
Ảnh hưởng môi trường của TTTM 19-12 theo góc độ phong thủy
Sau khi địa giới hành chính của thủ đô Hà Nội được mở rộng bao trọn Hà Tây và một số địa phương lân cận, Hà Nội trở thành một trong những thủ đô lớn nhất thế giới với nhiều lời hứa hẹn từ những người có thẩm quyền về một thủ đô xứng tầm khu vực và quốc tế, một thủ đô sẽ được quy hoạch lại bởi các công ty tư vấn quy hoạch uy tín quốc tế và những người làm công tác quản lý quy hoạch có tầm nhìn và lương tâm nghề nghiệp.
Thế nhưng, những động thái gần đây liên quan đến dự án xây dựng trung tâm thương mại trên nền chợ tạm 19 -12 khiến không ít người yêu mến và hi vọng về một Thủ đô Hà Nội vừa hiện đại, vừa bảo vệ được những giá trị đã trường tồn cùng năm tháng phải bức xúc.
Để bảo vệ cho đề án mở rộng địa giới thủ đô Hà Nội, các nhà quản lý đã lập luận rằng mở rộng không gian sẽ giúp cho không gian sống của người dân thủ đô được cải thiện, tạo điều kiện cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vốn bị giới hạn trong một thủ đô cũ “chật hẹp” được tiến hành nhanh chóng, đồng thời cũng góp phần giảm tải cho khu vực trung tâm của Hà Nội cũ về mật đô dân cư và lưu lượng giao thông, tạo điều kiện bảo tồn và nâng cao các giá trị về kiến trúc của khu vực này.
Tuy nhiên dự án xây dựng trung tâm thương mại (TTTM) ở vị trí chợ 19-12 là một minh chứng cho kiểu làm quy hoạch thiếu đồng bộ và tiền hậu bất nhất của những người làm công tác quy hoạch.
Khu vực chợ 19-12 (Ảnh do nhóm tác giả cung cấp)
Quy hoạch và quản lý độ thị cần tầm nhìn dài
Hà Nội ngày nay với diện tích hơn 3000km2, đất dành cho xây dựng không thiếu. Khu vực trung tâm Hà Nội cũ đã đến lúc cần được bảo tồn triệt để. Hãy nhìn lại những năm qua xem chúng ta đã đối xử với đô thị của chúng ta như thế nào? Hãy nhìn những tòa nhà cao tầng thương mại, khách sạn như: Melia, Vietcombank, Tháp Hà Nội, Trung tâm thương mại (TTTM) Vincom….với khu vực phố xung quanh nơi chúng được xây dựng. Trong một bán kính chưa đến 1 km nếu lấy Hồ Gươm làm tâm, đã có không dưới 5 TTTM cao tầng. Với mật độ TTTM cao tầng như thế, thì một TTTM ở vị trí chợ 19-12 liệu có thực sự cần thiết?
Đương nhiên việc đã từng tồn tại chợ 19-12 khẳng định sự cần thiết phải có của nó, nhưng không có nghĩa là nó phải ở vị trí đấy, và càng không có nghĩa là cứ phá một cái chợ cũ đi, thì ta phải xây dựng TTTM cao tầng, đặc biệt là với một thành phố có mật độ dân cư quá cao ở trung tâm như Hà Nội.
Không cần kể các nước tiên tiến ở đâu cho xa, ngay các nước láng giềng của chúng ta như Trung Quốc, Malaysia… các siêu thị và trung tâm mua sắm lớn đều được quy hoạch ở xa trung tâm thành phố, liền kề các khu vực ngoại ô. Một mặt giảm chi phí xây dựng vì đỡ tốn kém trong khâu giải phóng mặt bằng, một mặt góp phần giảm lưu lương giao thông ở khu trung tâm vào những ngày cuối tuần và nghỉ lễ lúc người dân tập trung đi mua sắm. Nhưng đồng thời, việc xây dựng các trung tâm thương mại ở ngoại ô cũng góp phần nâng cao mức sống và cảnh quan đô thị ở các khu vực đó, cũng như kéo gần sự chênh lệch về mức độ phát triển giữa các khu vực trong cùng một thành phố.

Bản đồ cao độ khu vực xung quanh chợ 19/12 (Ảnh do các tác giả cung cấp)Click vào ảnh để xem bản đồ cỡ lớnCác nước phát triển từ lâu đã có được tầm nhìn dài về quy hoạch và quản lý đô thị như thế, cho nên dù cuối tuần người dân ở các đô thị lớn đều đi mua sắm cho cả tuần, thì lưu lượng giao thông ở các khu vực đông dân cư ở trung tâm không tăng thêm nhiều, vẫn giữ được cho các khu phố cũ sự thanh bình vốn là nét đẹp lâu nay của các đô thị có lịch sử lâu đời.
Đối với loại hình chợ phục vụ nhu yếu phẩm hàng ngày như rau quả, thực phẩm, tại các nước tiên tiến, người ta sử dụng hệ thống siêu thị thực phẩm mini tại các khu dân cư, một khu dân cư có thể có nhiều siêu thị loại nhỏ của nhiều tập đoàn khác nhau, nhưng chúng chỉ chiếm mặt bằng tầng trệt hoặc tầng hầm của các khu dân cư.
Tin bài liên quan
Chợ 19-12: Hà Nội cần đường hơn hay trung tâm thương mại?
Chủ tịch Hà Nội: Thư ông Dương Trung Quốc là gợi ý
Chợ 19-12: Hà Nội cần "hy sinh"một số lợi ích!
Chợ 19-12: Vừa làm đường, vừa xây trung tâm thương mại!?
Về mặt văn hóa và tâm linh
Sau khi giải tỏa chợ 19-12 nên tạo ra tại đây một không gian tưởng niệm những người dân Hà Nội đã ngã xuống trong những ngày đấu kháng chiến chống Pháp. Đó không chỉ là điểm nhấn về không gian xanh cho khu vực vốn có mật độ xây dựng cao (xem bản đồ trên) và còn có ý nghĩa tâm linh với người dân thủ đô, nhắc nhở chúng ta về một thời điểm lịch sử bi tráng hào hùng của dân tộc. Chủ dự án trung tâm thương mại đã đưa ra ý tưởng xây dựng một đài tưởng niệm nhỏ hay một bức phù điêu cho mục đích cao quý trên đây. Ý tưởng này ban đầu xem ra có vẻ hợp lý nhưng kỳ thực càng cho thấy sự bất hợp lý của những người cổ vũ cho dự án. Có lẽ chỉ duy nhất ở Việt Nam chúng ta mới có kiểu quy hoạch kết hợp giữa trung tâm mua bán sầm uất nhộn nhịp và có thể nói là hơi phần xô bồ với nơi tưởng niệm những người đã khuất.
Để tưởng nhớ những người ngã xuống cho ngày đầu kháng chiến không đòi hỏi phải những tượng đài hoành tráng, những bức phù điêu tinh xảo nhưng nhất quyết không nên kết hợp nó với một nơi mua sắm giải trí xô bồ náo nhiệt. Nếu có thể hãy tạo ra một không gian nhỏ nhưng yên tĩnh và thiêng liêng. Kết hợp trung tâm thương mại mua sắm với nơi tưởng niệm là ý tưởng có phần không tôn trọng những người đã ngã xuống vì một Hà Nội hôm nay.
Ngoài ra, cần chú ý đến sự tôn nghiêm của Tòa án Nhân dân tối cao. Tại bất kỳ quốc gia nào tòa án đều được xây dựng tại những nơi tôn nghiêm, yên tĩnh là biểu tượng của quyền lực nhà nước và sức mạnh của công lý. Người Pháp khi xưa xây dựng trụ sở tòa án ở khu vực này (tên cũ là Palais de justyce) vốn đã tạo cho nó một không gian như thế. Sau này, trụ sở tòa án tối cao được bao bọc bằng hai tòa cao ốc 18 và 25 đã là quá đủ, nay có thêm một tòa nhà 17 tầng nữa sẽ tạo ra một bộ mặt xấu xí và lố bịch cho cảnh quan.
Một kiểu siêu thị ở Pháp - Monoprix. (Ảnh do nhóm tác giả cung cấp)
"Nguyện vọng nhân dân" được xem xét trong dự án như thế nào?
Ông Nguyễn Anh Cường – Giám đốc công ty TNHH Thủ Đô II trong bài trả lời VietNamNet có nói : “Suốt trong 4 năm triển khai dự án chúng tôi đã hoàn tất hàng chục thủ tục pháp lý, trình lên Bộ Xây dựng, qua Hội đồng Kiến trúc- Quy hoạch, được thẩm định bởi nhiều viện sở…nhưng chưa một cơ quan nào bảo chúng tôi ngừng tiến hành vì đây là một con đường”.
Tại sao trong suốt 4 năm liền, từ năm 2004, người dân thành phố Hà Nội, kể cả giới truyền thông báo chí, không hề được biết một chút tin tức nào về dự án này? Hơn nữa, vị trí này trước đây đúng là một con đường. Chợ 19-12 được thành lập và hoạt động ở đó như một giải pháp tình thế trong thời kì bao cấp. Và ngày nay nó không còn phù hợp với chức năng hoạt động là chợ tạm nữa, thì việc trả nó về đúng chức năng là một con đường là phù hợp với quy hoạch khu vực này từ xưa vốn được các chuyên gia quy hoạch người Pháp làm rất nghiêm túc và khoa học.
Chỉ có kiểu quy hoạch không có tầm nhìn, thiếu đồng bộ và thiếu sự công khai minh bạch mới tạo điều kiện cho tư lợi, tạo điều kiện cho những dự án chỉ tính đến lợi ích kinh tế trước mắt của một nhóm người mà bỏ qua những lợi ích lâu dài của đa số dân cư đô thị. Ông Chủ tịch Thành phố lập luận rằng: “Dự án xây trung tâm thương mại kia đáp ứng nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân”.
Căn cứ vào đâu để “nguyện vọng của nhân dân kia” được đánh giá và xem xét trong dự án này, trong khi người ta dễ dàng nhận thấy đó chỉ là quyết định vì lơi ích của một nhóm người, cụ thể ở đây là công ty TNHH Thủ Đô II, mà ông Nguyễn Anh Cường đã viện ra 4 năm gian khổ trải qua biết bao nhiêu thủ tục rối rắm và hơn 11 tỉ tiền chi phí đầu tư ban đầu dường như với mục đích đặt công luận vào “việc đã rồi”.
Như vậy, về mặt quy hoạch kiến trúc thì việc xây dựng thêm một tòa nhà cao 17 tầng ở nền chợ 19 -12 chỉ làm tệ hại thêm cảnh quan đô thị vốn đã bị phá vỡ nơi đây. Về mặt công năng cũng không cần thiết khi mà trong bán kính 1km từ khu vực đó đã có nhiều trung tâm thương mại tồn tại từ trước. Ngoài ra về mặt tâm linh và văn hóa như đã phân tích ở trên càng không nên vì lợi ích kinh tế trước mắt của một nhóm người mà bất chấp dư luận.
KTS Phùng Trung Hậu (Tây Ban Nha) - KTS Nguyễn Lê Minh (Mexico) - Nguyễn Quân (Pháp)

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2008

Rồi cũng như một hạt sương mai

Lưu giữ trong tâm khảm tôi là hình ảnh nàng đứng đợi tôi nơi góc đường vào một chiều đông lạnh giá, nhiệt độ ngoài trời có lẽ khoảng 3°C, ngày hôm trước thậm chí đã có những bông tuyết đầu mùa. Nhiệt độ như thế quả là lạnh với người đến vùng nhiệt đới nóng ẩm như tôi đây. Lâu lắm chúng tôi mới có dịp gặp nhau, đúng ra là do tôi bận rộn với việc học hành cũng như mải mê trong những mối quan hệ bạn bè mới nên toàn bỏ lại một bên những dịp có thể gặp lại nàng. Đúng hơn là tôi không chịu được cái cảm giác gặp lại một người mình đã rất mực yêu thương và có lẽ vẫn mãi thương mến nhưng không thể giúp gì được cho người ta ngoài những lời hỏi thăm vô nghĩa.
Mới hai ngày trước thôi là thời khắc của cuộc hẹn nhưng sao lại thấy thật là xa cách như nửa thế kỷ trước, cảm giác thật kì lạ cũng như khi tôi đi bên cạnh nàng, rất gần tưởng như có thể cầm nắm và giữ chặt mãi cho riêng mình nhưng lại thấy biền biệt cách xa phía bên kia bờ đại dương rộng lớn chẳng bao giờ có thể với tới.

Nàng muốn gặp tôi vì lâu lắm chưa gặp, hơn thế đây có thể là lần cuối chúng tôi gặp nhau vì nàng sắp rời nơi này đi xa, mà tôi thì cuối năm sau cũng sẽ như thế. Mặc một chiếc áo bông giữ nhiệt của Nhật bản với hình những bông sakura mà nàng đã mua vào một dịp nào đó sang Nhật.
Chúng tôi cùng gọi hai cốc trà và ngồi trên tầng 2 của quán bán đồ ăn nhanh Quick để nói chuyện. Thực ra người nói chuyện chủ yếu là tôi với những câu hỏi rất chi là vô vị về học hành và những dự định sắp tới. Nàng đang bị bệnh, và hôm trước còn nằm ở bệnh viện để truyền nước biển và tiêm thuốc vì viêm phế quản cấp kèm theo viêm họng. Vậy nên cuộc gặp gỡ cũng chỉ diễn ra trong 15’ ngắn ngủi như vậy thôi với vài lời nhỏ nhẹ và ngắt quảng mà tôi cố gắng mãi mới nghe được.
Rồi đến lúc sắp tạm biệt, nàng đột nhiên nói một cách nghiêm nghị và rõ ràng :
- « Cậu nhìn thẳng vào tớ để tớ xem có gì đổi khác không ? »
- Vẫn vậy nhỉ, cậu vẫn không có gì đổi khác, vẫn với đôi mắt rất sâu và như tớ đã từng nói là rất đặc biệt vì trong đôi mắt ấy người ta nhìn thấy có một đôi mắt khác ở sâu bên trong. Người có đôi mắt như thế này không thể nào là người xấu, đó hẳn là một người tử tế. Mà quả thực cậu luôn luôn tử tế với tớ dẫu tớ từng khiến câu rất đau khổ.
Tôi chỉ cười chứ biết nói gì hơn trước những lời như thế. Rồi cũng nói thêm vài câu :
- Cậu là người đầu tiên và duy nhất kể cho tớ về đôi mắt cận thị nặng của tớ. Cũng là người con gái hiếm hoi bảo rằng tớ là một người đàn ông tử tế, tốt bụng.
Quả thực thì trong đời tôi nhiều khi khá tệ bạc với phụ nữ. Nhưng với nàng thì không ! Bao giờ cũng với một tình yêu thương thiết tha không bờ bến và những gì tốt đẹp nhất lương thiện nhất của cuộc đời này mà tôi có thể có được.
Rồi cũng đến lúc tạm biệt, tôi không nói gì cả mà khẽ nắm bàn tay nàng, bàn tay mà một thời tôi đã nắm rất chặt với bao thiết tha nồng ấm…. Dáng nàng cao lớn mảnh dẽ dần khuất xa trong đám đông náo nhiệt những người trong một buổi chiều cuối năm rất lạnh.

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2008

Love

"Tình yêu ở mỗi con người thể hiện một cách khác nhau. Ở người này đó là việc bỏ bất cứ giá nào để giữ lại tình cảm, ở người khác đó là im lặng để cầu mong hạnh phúc đến với người mình yêu. Dù thế nào đi chăng nữa, trong chốn u minh hẳn phải vương mối duyên nợ".

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2008

Vớ vẩn tí...

Năm nay thời tiết thay đổi kì lạ. Mới cuối tháng 11 nhưng một số vùng ở Pháp đã có tuyết rơi, từ Ba Lê kinh kì cho tới vùng biên giới giáp Đức và Bỉ. Sáng vừa cố mãi mới bò ra được khỏi đống chăn thì có người gọi điện khỏe là chỗ bạn ở tuyết đang rơi rất dày.

Một ngày cuối tuần nhàm chán bắt đầu như vậy đó. Bạn kia gọi điện kể chuyện tuyết rơi thì mới nhớ là mình vẫn còn dùng điện thoại chứ không thì cũng chẳng biết dùng nó vào việc gì cả, xem giờ thì đã có đồng hồ rồi. Tháng nào cũng thừa một cơ số forfait chẳng biết dùng làm gì đành gọi điện về Việt Nam cho đỡ phí. Già rồi nên cũng chán luôn nói chuyện ê a qua điện thoại, không hẳn là sợ mất thời gian mà cái chính là chẳng biết nói gì cả. Thời gian trôi chậm nhất là vào những ngày cuối tuần là vậy!

Ai từng sống hay học ở chốn này mới hiểu là cuối tuần với bọn sinh viên nó nhàm chán thế nào. Thành phố vắng vẻ đìu hiu dù Toulouse là trung tâm công nghệ hàng không của cả Âu châu. Bình thường đã vắng và trời lạnh thì càng vắng vẻ hơn. Bọn sinh viên thì cũng chẳng có việc gì mà làm vì thư viện đóng cửa nghỉ hết (mà mình cũng không chăm lên thư viên trừ khi mượn sách), các cửa hàng cửa hiệu cũng nghỉ. Đời sống kiểu Pháp ấy mà, làm hết sức trong tuần và nghỉ ngơi hết mình vào cuối tuần và dịp lễ. Ngày trước còn thuê nhà ở chung nên cuối tuần cũng vui, cùng nhau xem phim hay tổ chức nấu ăn nhậu nhẹt. Có lẽ hồi đó còn trẻ nữa nên cũng thích thế, chứ bây giờ nghĩ đến cảnh ăn uống rượu bia xong rồi các bạn kia hát karaoke ầm ĩ là thấy sợ. Vốn thích yên tĩnh thanh bình nên trò hát hò hay đi disco thấy thật là chán, mặc dù thi thoảng cũng vẫn đi cho có không khí.

Tuần trước tình cờ đi ngoài đường gặp lại bạn gái cũ. Chẳng biết nói gì cả đành giơ tay vẫy vẫy chào. Hay thật, từng gần gũi gắn bó là thế mà giờ gặp nhau còn thấy lạ hơn cả người gặp lần đầu. Mà chia tay cũng có gì mâu thuẫn đâu, chỉ là không hợp nhau về suy nghĩ và lối sống, điều khiến hai người dần dần xa nhau chứ cũng chẳng hề cãi vã to tiếng gì. Mà nhiều người vẫn thi thoảng hỏi là không thể hiểu tại sao hai đứa các cậu có thể đi bên nhau chừng ấy thời gian. Không hè có ý định phủ nhận những chuyện đã qua nhưng mà quả thật là cũng có mấy khi đi bên nhau đâu. Có bạn gái mà cứ thích đi xem phim một mình, đi chơi một mình và mua bia rượu về uống một mình thì sớm muộn rồi cũng hết chuyện mà nói thôi.
Không hiểu tại làm sao mà với em mình ít có mong muốn chia sẽ cuộc sống riêng hay việc học hành, tương lai của bản thân mặc dù vẫn luôn thương mến và muốn quan tâm, đến tận bây giờ vẫn muốn như thế. Có lẽ là lối sống có quá nhiều khác biệt, suy nghĩ xa cách ngay cả trong những việc nhỏ nhặt nhất, dù có tự an ủi là cố gắng tìm điểm chung để cùng tiến lên phía trước, nhưng kiểu đàn ông cứng đầu cứng cổ và hay bất cần như mình đây thì chuyện đó là không tưởng.

Tìm một người biết lắng nghe một thằng nhiều lúc đi cạnh cả buổi không thèm nói lấy một câu và chỉ tủm tỉm cười nhưng nhiều khi lại như bị lên đồng nói đủ thứ chuyện chẳng ăn nhập gì với nhau từ chuyện bà gì bà cô ở quê mới xây ngôi nhà cho tới chuyện triết lý cao siêu, máy bay tên lửa...quả là khó vô cùng. Thế nên giữa cuộc sống nhiều đổi thay và như ai đó nói "chẳng có điều gì là vĩnh viễn, trái tim rồi cũng sẽ phải đổi thay" thì thi thoảng vẫn cứ nhớ một người xa lắc lơ nào đó, người con gái lúc nào cũng bận rộn với cuốn sổ lịch kín mín những planing mà vẫn sẵn lòng bỏ ra cả buổi để ngồi ngồi cùng trên một cái ghế đá bé tẹo cạnh bờ sông để nghe một thằng dở hơi kể những chuyện chẳng ăn nhập gì cả...Cứ nghĩ là dùng một cái máy ghi âm digital rồi ghi lại cả buổi ngồi lảm nhảm kia rồi bắt chính mình nghe lại thì mới thấy kinh khủng.

Quả là dở hơi nếu so sánh người này với người kia.Suy cho cùng mỗi người mà ta biết và quen đều mang đến một thứ tình cảm hay cảm xúc nào đó, không nhất thiết cứ phải là như nhau. Nói là thế nhưng mà tự thân mỗi sự nhìn nhận đã là một sự so sánh rồi.

Ngày hôm kia dọn dẹp giấy tờ lôi ra biết bao là thư từ và thiệp. Gọi là tình thư cũng được, vì là thư của "người yêu" viết cho mà. Đọc lại thấy hay thật, công nhận là viết đẹp và chắc là cũng chân thành nữa, thứ văn chương trau chuốt mà kiểu người cục mịch khô khốc như mình không bao giờ có thể viết nổi một dòng như thế. Cũng không nhớ là hồi xưa đọc những lá thư đó mình có cảm động không, chắc là phải có chứ! Đọc thư của người yêu cơ mà.

Lẫn trong đám thư từ kia cũng có một bức thư khác, không phải bằng tiếng Việt mà bằng tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp thô mộc đơn giản và có cả vài lỗi chính tả nữa. Thư này tất nhiên là chẳng thể nào nói là hay ho về câu cú hay ý tứ được. Đại khái thế này "Bạn đừng băn khoăn hỏi là mình gần như không bao giờ nói lên tình cảm của mình đối với bạn, cả cái mối quan hệ mà ta vẫn gọi là tình yêu. Không phải bởi vì tớ không biết nói, thật là dễ dàng nói lên mấy từ đó! Bạn cũng biết là tớ thích những điều nhẹ nhàng không ồn ào cũng như bạn, cũng vì thế mà tớ muốn là tự bản cảm nhận được tình cảm của tớ chứ không cần phải do chính tớ phải nói ra bằng mấy câu quá ư là dễ dàng. Và tớ cũng muốn làm nhiều điều cho bạn hiểu được tình cảm của tớ hướng về bạn thay vì nói lên thành lời.
Bạn có nhớ không, có một lần trời lạnh và thay vì hỏi "có lạnh không" thì bạn nhường cho tớ khăn của bạn. Đó là cách thể hiện tình cảm mà tớ mong muốn nhất...


Viết mấy dòng này gọi là nhật ký cuối tuần cũng được! Thế là qua 2 ngày week end nhàm chán và vô vị. Chờ tuần mới đến với nhiều việc phải làm.

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008

November Rain

Một buổi chiều muộn rãnh rỗi, khoác vội bộ quần áo thể thao cùng đôi dày cũ kĩ cắm máy nghe nhạc vào tai chạy một vòng dọc bờ kênh Midi xa về phía kí túc xá Chapou.
Trời tuy đầu đông nhưng vào chiều muộn nên lạnh hơn hẳn. Không khí như đông đặc lại cùng không gian vắng vẻ dọc 2 bờ kênh. Dạo này sức khỏe hình như khá hơn nên chạy tầm 2km mà không hề thấy mệt. Cũng tốt lắm.
Gặp anh B, thế là vào nhà anh ăn cơm tối luôn. Công nhận là có gia đình vợ con rồi đi học quả là vất vả và nhiều đắn đo. Chứ như mình đây thì cuộc đời êm đềm nhẹ nhàng trôi.
Cuối buổi về thì gặp phải mưa phùn, đi được nửa đường thì trời đổ mưa zông, mưa như trút, kiểu mưa rất hiếm gặp ở đây. Mưa ầm ầm xối xả lên vỉa hè lát đá vốn được trải vàng mượt của cơ man nào lá của một mùa thu vừa mới đi qua. Mặc đồ thể thao mỏng lại đi giầy vải nên ướt như chuột, nước mưa làm mờ cả mắt kính. Lạnh kinh khủng, lạnh còn hơn cả những lần đi học về gặp tuyết rơi những năm trước.

Vậy đó, mưa tháng 11, november rain...


Cause nothin' lasts forever
And we both know hearts can change

Bởi chẳng có gì là vĩnh cửu.
Và trái tim rồi cũng phải đổi thay.

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2008

Quan niệm của người Pháp về Nhà nước pháp quyền.

Quan niệm của người Pháp về Nhà nước pháp quyền.

Học thuyết Rechtsstaat của người Đức chỉ bắt đầu được biết đến tại Pháp vào đầu thế kỉ 20 : Một số tên tuổi lớn của trường phái chính luận Pháp khá gần gũi với tư tưởng của người Đức- Léon Duguit ngay từ 1901 (Nhà nước, pháp luật khách thể và luật thực định), Maurice Hariou vào năm 1903 (Giản lược về luật hành chính và luật công, in lần thứ 5), Léon Michoud vào năm 1906 (Lý thuyết về tư cách pháp nhân và sự áp dụng nó trong luật công Pháp)- dù còn có những ám chỉ và tranh cãi, nhưng thuật ngữ Nhà nước pháp quyền (Etat de droit) vốn được dịch nguyên nghĩa của từ Rechtsstaat thời kì đầu có vẻ như là có mối liên hệ không chối cãi với tư duy pháp lý của người Đức.

Tuy nhiên, quá trình địa phương hóa quan niệm của người Đức diễn ra nhanh chóng ngay sau đó : Ngay từ năm 1907 (Giáo trình luật Hiến pháp), Duguit đã không ngần ngại sử dụng thuật ngữ trên, tiếp sau đó là Hauriou vào năm 1910 vào năm 1910 (Các nguyên tắc của luật công, xuất bản lần 1) cuối cùng là Raymond Carrré de Malberg với việc xuất bản cuốn « Đóng góp vào lý luận chung về Nhà nước »(1920-1922). Sự phổ biến của quan niệm này giải thích rằng đã tồn tại sự đối thoại giữa các nhà luật học Pháp và Đức, sự trao đổi này diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong giai đoạn 1870-1918. Sự đối thoại này không phải chỉ diễn ra một chiều mà thực tế nó có hai mặt : Trong khi « học thuyết pháp lý của người Pháp mang đến cho các nhà luật học người Đức một kết cấu vững chắc về chủ nghĩa tự do trong lĩnh vực pháp lý được khởi nguồn từ cách mạng 1789 » thì « học thuyết pháp lý của người Đức mang đến cho người Pháp mô hình lý thuyết về Nhà nước pháp quyền » (O.Beaud, P Wachsman, 1997) Tại Pháp sức hấp dẫn của tư duy pháp lý của người Đức được lý giải bởi việc hình thành một tầng lớp ưu tú ở tầng cao nhất của chế độ Đức vào thời kỳ này, vượt lên trên tín ngưỡng sau thất bại của cách mạng 1870 (dẫn tới sự hình thành trường phái tự do về các khoa học chính trị vào năm 1871), bởi việc có vẻ như nước Đức cho phép tạo ra sự độc lập trong khoa học pháp lý.

Một phần các nhà luật học Pháp tiếp nhận từ « Nhà nước pháp quyền » (Etat de droit), điều đó không có nghĩa là họ chấp nhận cho từ này một nội dung tương tự với nó vốn có tại Đức, phiên bản Rechtsstaat mà các nhà luật học Pháp biết tới và trở nên chiếm ưu thế, là thứ Rechtsstaat mang nhãn hiệu của các luật gia của Đế chế và « Liên minh thần thánh » mà các nhà luật học Pháp tham gia từ năm 1914 đến 1918, dẫn tới các luật gia này có khoảng cách so với học thuyết của người Đức. Trường hợp của Carrré de Malberg là một ví dụ rõ nhất : Nếu ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư duy pháp lý của người Đức và nhất là ảnh hưởng của Laband, người ông đã thay thế chức giáo sư luật công của khoa luật Strasbourg, thì Malberg cũng là minh chứng của một tinh thần ái quốc không khoan nhượng khi ông chối bỏ sự du nhập vô điều kiện thứ giáo lý của Rechsstaat, ông không thừa nhận một bộ phận không nhỏ các yếu tố của học thuyết này vốn tỏ ra cho ông là hoặc còn phải tranh cãi, hoặc là không phù hợp với tư duy pháp lý của người Pháp, ông tự mình xây dưng nên lý thuyết riêng về Nhà nước pháp quyền vốn được ông đối chiếu với luật thực định.

Như vậy, lý thuyết Nhà nước pháp quyền khi du nhập vào nước Pháp được kết hợp với truyền thống chính trị va thể chế đặc thù của Pháp thừa hưởng từ thời Cách mạng, so với đó quy chế của nó nhập nhằng : vừa cho phép làm tăng giá trị của lý thuyết này, đồng thời truyền thống đó cũng góp phần phát triển thêm lý thuyết thông qua việc mang tới những luận chứng mới nhằm phê bình các thể chế của nền cộng hòa thứ 3.

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2008

Tính tự hạन chế (P2)

Một mặt, khi từ bỏ quan niệm mang tính di sản (fiscus) cho tới quan niệm nổi trội, học thuyết pháp lý Đức nhìn nhận Nhà nước như một chủ thế pháp lý độc lập, tách bạch với nhà cầm quyền cũng như Quốc gia : Trong khi vào năm 1852 Gerber còn không thừa nhận ý tưởng về tư cách pháp lý của Nhà nước, năm 1865 ông mới đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống của mình, như O. Von Gierke (1874) nhấn mạnh : Nhà nước phải được xem như một thực thể pháp lý hoàn toàn khác biệt với Quốc gia, giống như một cá nhân, nó cô đặc lại và có được nền tảng chính trong Quốc gia.Lý thuyết này hoàn toàn ngược lạ với học thuyết của người Pháp vốn xem Nhà nước không gì khác hơn là sự sụ thể hóa về mặt pháp lý của Quốc gia. Cho phép nhìn nhận nhà nước trong sự toàn vẹn và liên tục của nó, cách nhìn này được xem như là « điều kiện tiên quyết cho tất cả cấu trúc của luật công » (Gerber) và cần thiết để thiết lập nên sự độc lập của nó (Isolierung)

Mặt khác, Nhà nước trang bị quyền lực chiếm ưu thế (Herrschaft), thứ pháp luật chủ thể thực sự vốn là của riêng nhà nước và mang dấu hiệu phân biệt : Nhà nước là chủ thể duy nhất nắm giữ quyền cưỡng chế, có nghĩa là là quyền được đưa ra các mệnh lệnh để áp đặt một cách không thể chống lại « quyền lực Nhà nước là thứ uy quyền mà người ta không thể chống lại. Cai trị có nghĩ là chỉ huy không điều kiện và có khả năng ép buộc thực hiện các mệnh lệnh bằng biện pháp cưỡng chế » (Jellinek). Hệ quả logic của cách thức xây dựng này là Nhà nước hiện ra như là nguồn duy nhất của luật pháp »(Ihering) : Chỉ duy nhất Nhà nước có thể tạo cho pháp luật sức mạnh cưỡng chế, như vậy có nghĩa là không tồn tại thứ pháp luật có trước và đứng cao hơn Nhà nước ». Dĩ nhiên, ý tưởng về mối liên hệ hữu cơ giữa pháp luật và Nhà nước không phải được đặt ra ngay lập tức vì những gì do lịch sử có thể hiểu được. : Ví dụ, ta có thể tìm thầy ở Savigny cách nhìn hoàn toàn khác về thứ pháp luật dựa trên tập quán, thứ tập quán vốn có gốc rễ từ « đời sống dân cư » (Volksgeist)- Nhà nước chỉ là một hiện tượng « đơn giản » tạo chất liệu cho sự thống nhất quốc gia, và chính Ihering gắn bó một phần với cách nhìn này. Nhưng kể từ khi thực hiện sự thống nhất nước Đức, học thuyết mới được khẳng định với sự bảo đảm của ba học giả tên tuổi là Ihering, Laband và Jellinek. Ngay cả luật pháp bắt nguồn từ Volksgeist, chính chỉ trong Nhà nước mà pháp luật tìm thấy « điều kiện cho sự tồn tại của chính nó », thực tế nó kéo theo không chỉ quy phạm mà còn chế tài. Vì vậy chỉ có các quy định được ban hành và đảm bảo bằng cưỡng chế bởi Nhà nước mới có tính chất của các quy phạm pháp luật. Cũng thế ý tưởng giới hạn quyền lực Nhà nước bằng pháp luật tỏ ra là hão huyền.

Chính trong ý tưởng rất đặc trưng của trường phái Hegel về « tự hạn chế » mà học thuyết của người Đức tìm thấy chìa khóa của mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật. Bởi vì Nhà nước là nguồn gốc của luật pháp, bởi vì nội dung của mệnh lệnh mang tính pháp lý phụ thuộc vào Nhà nước, luật pháp tạo nên cho Nhà nước sức cưỡng chế đến từ bên ngoài, một giới hạn khách quan : Không chỉ chính Nhà nước xác định các nguyên tắc áp dụng cho các hoạt động của nó và chính Nhà nước quản lý tổ chức nội bộ của nó (quyền tự tổ chức), ví dụng thông qua việc xây dựng nên một bản Hiến pháp, nhưng hơn thế, các quy tắc này không chỉ được áp đặt lên Nhà nước một cách tùy tiện theo ý chí của bản thân Nhà nước : Điều đó không có nghĩa là quyền lực Nhà nước là không giới hạn, mà Nhà nước được ưu tiên tự xác định cho chính nó các nguyên tắc nhằm khuôn khổ hóa việc thực thi quyền lực và sửa đổi chúng khi cần thiết. Địa vị đặc thù này của Nhà nước trong mối quan hệ với luật pháp lý giải rằng bản thân Nhà nước không thể hành động theo các nguyên tắc áp dụng cho các cá nhân giản đơn : Nhà nước phải phục tùng một thứ luật đặc biệt, đó là luật hành chính vốn dựa hoàn toàn trên ý tưởng « tự hạn chế » ; như vậy lý thuyết Rechtsstaat khởi xướng cho việc hình xây dựng luật hành chính, ngành luật mà tại Đức Otto Mayer (1846-1924) thực sự là người sáng lập.

Tuy vậy, khác với học thuyết « Nhà nước quyền lực », vốn quan niệm luật pháp chỉ được sinh ra để liên kết cả chủ thế và không áp đặt lên Nhà nước (Seydel), những người theo lý thuyết « tự hạn chế » xem pháp luật thực sự là một sự cưỡng chế đối với Nhà nước : Không những Nhà nước không thể tự mình hủy bỏ trật tự pháp lý (Jellinel) mà không phá hỏng nền tảng tạo nên chính Nhà nước, nhà nó còn phải tự nguyện tuân thủ mọi luật lệ. Có 2 lý do cho điều này : Một mặt, bởi vì Nhà nước tìm thấy « lợi ích » trong chừng mực luật pháp hiện hành được tuân thủ tốt hơn nếu chính Nhà nước tuân thủ trước (Ihering), mặt khác bởi vì áp lực xã hội, thứ mà Ihering gọi là « tinh thần quốc gia của luật pháp »- thúc đẩy Nhà nước. Chỉ có điều trong quan niệm này thì luật pháp không tạo nên một giới hạn nội tại, một sức mạnh cưỡng chế phục thuộc đối với Nhà nước : Sự giới hạn chỉ là nội tại và sinh ra từ quá trình khách quan hóa ý chí của Nhà nước trong một trật tự pháp lý đặc trưng bởi tính ổn định, hài hòa và được tổ chức có thứ bậc, sự hạn chế này tỏ ra khá mong manh và chủ yếu phụ thuộc vào mạng lưới của các niềm tin mà trên đó tổ chức chính trị được thiết lập hơn là phụ thuộc vào sức mạnh của luật pháp.

Học thuyết Rechtsstaat của người Đức được học thuyết pháp lý của người Pháp xem xét bằng một thái độ nghi ngờ : được nhìn nhận như là công cụ để hợp pháp hóa chế độ chính trị đế chế, nó bị đánh giá là đối lập với quan niệm Nhà nước Quốc gia được kế thừa từ cách mạng Pháp.

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

Sự tự hạn chế

Tự hạn chế
Dẫn nhập đoạn này vì hơi khó hiểu
Để bênh vực Rechtsstaat, học thuyết Đức sáng tạo ra thuyết "Nhà nước tự giới hạn". Một mặt, thuyết này thừa nhận truyền thống tư tưởng trước đây: Nhà nước là nguồn gốc của luật pháp, luật pháp không áp đặt trên Nhà nước một ràng buộc từ bên ngoài, một giới hạn khách quan. Một mặt, thuyết này nói thêm rằng điều đó không có nghĩa rằng quyền uy của Nhà nước là vô hạn, mà chỉ có nghĩa rằng Nhà nước có một đặc quyền - đặc quyền tự mình đặt ra cho mình những nguyên tắc tạo khung cho việc thực hiện quyền lực của mình. Vị thế đặc biệt đó của Nhà nước trong mối tương quan với luật pháp cắt nghĩa tại sao Nhà nước không bị chi phối bởi cùng những nguyên tắc như những cá nhân thông thường: Nhà nước được đặt dưới một luật pháp đặc biệt, luật hành chính, bảo vệ Nhà nước hơn.

Mối quan hệ Nhà nước và pháp luật đã được xem xét trong tư duy triết học Đức theo cách thức dường như đối lập nhau. Trong khi với Kant người xuất hiện như là người khởi đầu đích thực của quan niệm tự do về Rechtsstaat thì thứ luật duy nhất có thật là « luật tự nhiên », « ý niệm về luật pháp » đến trước kinh nghiệm chính trị (quan niệm siêu hình) và chuyển tới một trật tự pháp lý được thiết lập thoạt nhiên dựa trên Lý tính và nhằm phục vụ cho tự do. Đối với Fichte và Hegel thì không có thứ luật nào ngoài luật nhà nước. Fichte cho rằng quan hệ pháp lý là do nhân dân tạo nên trong Nhà nước : « Không tồn tại thứ luật tự nhiên nào hết, có nghĩa là luật pháp không thể là mối quan hệ pháp lý có thể có giữa người vớ người nếu nó không hình thành trong một cộng đồng và không biểu hiện dưới các luật lệ thực định » do vậy, luật tự nhiên hoà lẫn với luật thực định của Nhà nước. Cũng như vậy Hegel cho rằng Nhà nước phải tuân thủ những giới hạn bên ngoài, vì nó hiện thực hóa sự thống nhất, tổng hợp của lợi ích chung và những quyết định đặc biệt.
Tuy vậy, sự đối lập bề ngoài bị nhạt dần. Khi coi Nhà nước là điều kiện cần thiết để diễn dịch ý niệm pháp luật và thực thi tự do. Kant đã gieo mần cho chủ nghĩa thực chứng pháp lý, điều đương nhiên dẫn Kant tới chỗ bào chữa cho sự chuyên quyền « sáng suốt » của Frédéric II. Ngược lại, việc phủ nhận ý tưởng về một thứ luật tự nhiên có trước Nhà nước không có nghĩa là thiếu sự hạn chế quyền lực Nhà nước : Theo Fichte thì Nhà nước có trách nhiệm với cộng đồng đã trao cho nó quyền làm ra luật lệ. Lý luận của Hegel dựa trên ý tưởng Nhà nước là sự thường xuyên liên tục, với tư cách là nguyên tắc tổng quan, hoạt động dựa trên sự phủ định, trên sự lui tới từ tổng thể đến cụ thể, điều này dẫn ra một yếu tố của sự tự hạn chế. Fichte và Hegel, sau đó là Hobbes vốn cho rằng Nhà nước thông qua thỏa ước vốn sản sinh ra nó, được trang bị sự tự chủ hoàn toàn đối với luật lệ, không có nghĩa vụ phải tuân thủ ngay cả mục tiêu vốn tạo ra chính nó. Đối với Spinoza thì chính Lẽ phải thúc đẩy Nhà nước tuân thủ các nguyên tắc mà nó đặt ra.
Dẫu sao thì cách nhìn của trường phái Kant về một thứ « luật tự nhiên lý tính » vốn bao phủ bằng ý tưởng tự do sẽ bị xóa bỏ trong học thuyết pháp lý của người Đức sau thất ại của cách mạng 1848 và sự nắm quyền của Bismarck : luật công như thế sẽ có su hướng hòa vào « luật công thực định », đầu tiên là với Gerber rồi tới Đế chế của Laband (luật công của đế chế đức, tập 6, 1900 -1904)

@Copyright Quan NGUYEN

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2008

Nhà nước cảnh sát/ Nhà nước pháp quyền.

Nhà nước cảnh sát/ Nhà nước pháp quyền.

Trong con mắt của các lý thuyết gia thì đặc trưng căn bản của Rechtsstaat thể hiện ở trong mối quan hệ với đối tượng bị quản lý và với tất cả những gì thuộc về quy chế cá nhân của những đối tượng này, Nhà nước hành động dựa trên cơ sở của các nguyên tắc khái quát, các quy phạm và những thứ đã được xác lập từ trước. Sự đòi hỏi này thực sự có ý nghĩa đối với chính quyền và tạo ra nguyên tắc căn bản cho thấy sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat) và nhà Nhà nước cảnh sát (Polizeistaat)

Cũng như nhà nước pháp quyền và khác với kiểu chính phủ độc đoán hay chuyên quyền, nhà nước cảnh sát thừa nhận chỗ đứng lớn lao của pháp luật : Nhưng đó là thứ luật pháp hoàn toàn mang tính công cụ dựa theo đó chính quyền toàn quyền sử dụng, chính quyền không có nghĩa vụ phải tôn trọng các quy phạm có giá trị tối thượng đã được đặt ra cho chính nó. Đó là thứ pháp luật nhằm áp đặt các nghĩa vụ lên các đối tượng bị quản lý trong khi chính quyền không chịu sự gò bó áp chế nào, nó là biểu hiện và cô đọng của tất cả sức manh của chính quyền. Nhà nước cảnh sát được dựng lên bởi đăc ân của Hoàng đế (luật pháp là ý chí của giai cấp thống trị) : không thực sự tồn tại một giới hạn pháp lý ngăn cản hoạt động của chính quyền, cũng không có một cơ chế bảo vệ thực sự giúp công dân chống lại nhà nước.

Nhà nước pháp quyền đối lập với Nhà nước cảnh sát ở chỗ trong mô hình nhà nước này luật pháp không còn chỉ là công cụ hoạt động của Nhà nước mà còn là phương tiện giới hạn sức mạnh của chính quyền. Pháp luật ở đây mang lại cho chính quyền một đặc trưng hai chiều, pháp luật cho phép chính quyền hành động những đồng thời cũng đề ra nghĩa vụ cho chính quyền đó. Như vậy Nhà nước pháp quyền buộc chính quyền phải phục tùng một tổng thể các nguyên tắc tối thượng và đến từ bên ngoài nó, áp chế lên nhà nước một cách có tính ràng buộc và cưỡng chế. Những quy tắc này trao cho Nhà nước tư cách để hành động và nó cũng xác định các phương thức chính quyền có thể sử dụng : Chính quyền không được áp đăt những gì không được định liệu ngầm từ trước bởi các nguyên tắc trên, các đối tượng bị quản lý có thể viện đến một cơ quan tài phán để yêu cầu hủy bỏ, sửa đổi hay không áp dụng những quyết định hành chính vi phạm các quy tắc trên.

Thực tế thì học thuyết Rechtsstaat dẫ tới việc khẳng định tính tối cao của luật đối với chính quyền : Chính quyền không những tránh hành động trái với luật (contra legem) mà còn phải có nghĩa vụ hành động phù hợp với luật (secundum legem) dựa trên một tư cách hợp pháp. Sự khẳng định này chỉ có ảnh hưởng đối với quan niệm vật chất về luật được tuyên bố bởi học thuyết của người Đức và nó đối lập với hoàn toàn mang tính hình thức sau khi được Carrré de Malberg khởi sướng và thành học thuyết của người Pháp : Xác định bằng nội dung của nó, luật bao trùm toàn bộ sự ban bố (ra lệnh) của các quy phạm nhằm hướng tới đối tượng chịu sự quản lý. Mục đích của luật là « hạn chế các quyền và nghĩa vụ tương hỗ của các cá nhân » (Laband) hoặc là « vạch ranh giới cho các hoạt động tự do của các cá nhân trong các mối quan hệ tương hỗ »(Jellinek)


@Copyright Quan NGUYEN

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2008

Học thuyết Rechtsstaat của người Đức

Học thuyết Rechtsstaat của người Đức

Quan điểm mang tính hình thức này chỉ chiếm ưu thế trong học thuyết pháp lý Đức nửa sau của thế kỉ 19. Trong suốt giai đoạn đầu thế ki 19 thì quan điểm tự do chiếm ưu thế. Xuất hiện vào năm 1798 dưới ngòi bút của Johann Wilhelm Placidus, ông sử dụng từ mới Rechtsstaat để gọi tên trường phái Kant, từ này có nghĩ rất gần với Rule of law của người Anh, dùng để chỉ một nhà nước mà phạm vi hoạt động bị giới hạn bởi các quyền tự nhiên của các cá nhân (bảo vệ các quyền tự do dân chủ và an ninh của cá nhân, bảo vệ quyền sở hữu) : sự đòi hỏi này dẫn tới một số nguyê tắc tổ chức cho phép nhà nước được quản lý phù hợp với với những nguyên lý của Lẽ phải (Vertandesstaat)- Hiến pháp đảm bảo các quyền con người và phân chia quyền lực, tính tối cao của luật pháp và công dân được mời tham gia vào quá trình đó thông qua cơ chế Nghị viện (Nhà nước pháp quyền như thế kết hợp với ý tưởng đại diện quốc gia (Volkscertretung), chính phủ đại nghị, sự độc lập của quan tòa. Như vậy thuyết Rechtsstaat xuất hiện như là sự cô động những giá trị của chủ nghĩa tự do mà các thuyết gia trường phái Vormarz ca tụng, nhằm chống lại nhà nước chuyên chế (Obrigkeitsstaat) và cổ vũ cho việc tập hợp các cải cách chính trị tại các nhà nước thành bang của Đức và sự lên ngôi của chế độ quân chủ lập hiến. Nối tiếp nhà nước chuyên chế vốn được thiết lập trên thứ luật lệ mạnh mẽ nhất và nhà nước « thần quyền » dựa trên nguyên tắc của đức tin, nhà nước kiểu Rechtsstaat bị thống trị bởi sự tôn thờ luật pháp, được xem như là giai đoạn đỉnh cao của sự tiến hóa của mô hình Nhà nước(Carl Théodor Welcker), người tiêu biểu nhất trong số các tác giả này là Robert von Mohl (1799- 1875, Die Polizeiwessenschaft nach den Grundsatzen des Rechtsstaates, 1832- 1834)

Phản ứng chống lại quan điểm tự do này, Friedrich Julius Stahl, người nhiệt thành bảo vệ nền quân chủ Phổ phủ nhận từ chỗ định nghĩa của Rechtsstaat tất cả những trích dẫn về mục đích của Nhà nước, và chỉ gắn bó với « cách thức » mà nhà nước dùng để thực hiện quyền lực : Luật pháp như vậy không chỉ là phương tiện để giới hạn quyền lực của Nhà nước nhân danh quyền tự do của các cá nhân mà còn là phương tiện hợp lý để tổ chức nhà nước, « Nhà nước phải định ra, thông qua pháp luật những con đường và những giới hạn cho phạm vi hoạt động của chính nó, cũng như không gian tự do của công dân ». Dù Stahl loại trừ tất cả những lo lắng về đạo đức trong phân tích của ông, thì con đường vẫn mở về phía quan niệm hình thức của Rechtsstaat sẽ được đặt ra ngay sau đó. Rechtsstaat không còn gợi lên nội dung vật chất hay mà đề cập đến cách thức hoạt động của Nhà nước :Một Nhà nước hoạt động trong cái khuôn luật pháp trong khi vẫn tuân thủ lô gic vốn có gắn liền với thể chế của nó. Thứ « khoa học về luật công mới » được hình thành từ các bài viết của « những luật gia của Đế chế », nhất là Carl Friedrich Gerber (1823-1891), Paul Laband (1838-1918), Georg Jellinek (1851-1911) hoàn toàn hướng về thực chứng và xa lạ với những lo lắng của Lorenz von Stein vốn tìm cách vượt qua chủ nghĩa hình thức của lý thuyết Rechtsstaat bằng cách biện họ cho việc đẩy mạnh (quảng bá) của một « nhà nước pháp quyền xã hội ». Vấn đề là thoát khỏi thứ lý thuyết pháp lý về Nhà nước hoàn toàn xem nặng tính triết học, chính trị hay đạo đức, cũng như những câu hỏi liên quan đến nội dung của các luật đang có hiệu lực. Rechtsstaat hướng tới hoà lẫn với một sự tuân thủ giản đơn về tính pháp chế hình thức. Cũng như thế, sự quan tâm hướng một cách rất tự nhiên về phí chính quyền (hành chính) : Rechtsstaat trở thành Nhà nước trong đó chính quyền phục tùng luật pháp và ở kiểu nhà nước này tồn tại những phương cách chống lại chính quyền- bằng hệ thống tòa án theo kiểu tư pháp (Ott Bahr, Otto von Gierke) hoặc là các cơ chế tài phán nằm ngay trong hệ thống hành chính (Rudolph von Gneist). Rechtsstaat chỉ còn là « Nhà nước pháp quyền mang tính hành chính được sắp đặt « (Otto Mayer) bị chi phối bởi vai trò của quan tòa thừa hành bảo đảm sự tuân thủ pháp chế. Lý thuyết « tự hạn chế » trong đó học thuyết của người Đức tạo ra nền tàng của Rechtsstaat, củng cố thứ hình thức chủ nghĩa này, bằng cách đặt pháp luật trong quỹ đạo tuyệt đối của Nhà nước.

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2008

Chế độ pháp luật

Chế độ pháp luật
Tại Pháp cũng như Đức, từ đầu thế kỉ 20 Nhà nước pháp quyền được quan niệm như một kiểu Nhà nước đặc biệt, đặt dưới một « chế độ luật pháp » : trong nhà nước như thế, chính quyền chỉ được sử dụng những phương tiện được ban ra bởi trật tự pháp lý hiện hành, trong khi đó các cá nhân được sử dụng những phương tiện tư pháp để chống lại sự lạm quyền có thể có đến từ chính quyền.
Trung tâm của học thuyết nhà nước pháp quyền, là nguyên tắc theo đó các cơ quan nhà nước chỉ có thể hành động dựa trên một tư cách pháp lý. : mọi hành vi sử dụng sức mạnh vật chất đều phải được hìn thành từ một quy phạm pháp luật. Việc thực thi sức mạnh được chuyển đổi vào thẩm quyền, được thiết lập và đóng khung bằng luật pháp. Trong chừng mực cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tuân thủ các quy phạm pháp luật cao hơn , Nhà nước pháp quyền có xu hướng được giới thiệu dưới hình thức một trật tự của các quy phạm. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi trước tiên sự phục tùng pháp luật bởi chính quyền : Chính quyền phải tuân thủ các quy định vốn tạo nên nền tảng, khuôn khổ và phạm vi hoạt động của chính quyền đó, sự tuân thủ này phải được đảm bảo bởi sự tồn tại của một cơ chế kiểm soát tư pháp thành thục, tức là hoặc bởi các quan tòa bình thường (Justizstaat), hoặc bởi các tòa án đặc biệt (Sondergerichte). Nhưng lý thuyết này cũng đòi hỏi sự lệ thuộc của luật vào Hiến pháp : Nghị viện phải thực thi những quyền hạn của mình trong khuôn khổ đã được xác định bởi Hiến pháp, và hơn thế, sự can thiệp của một quan tòa, ở đây là một tòa hiến pháp là điều cần thiết để đảm bảo sự tôn trọng tính tối thượng của hiến pháp.
Như vậy, nhà nước pháp quyền được quan niệm đối lập mạnh mẽ với lí thuyết Rule of law của người Anh vốn được Dicey hệ thống hóa ( Introduction to the Study of the Law of the Constitution, 1885), hoàn toàn được dựng dựa trên sự lo lắng để bảo vệ các quyền tự do của cá nhân : Việc tuân thủ trật tự các quy phạm thay thể bằng sự khẳng định uy quyền tối cao và duy nhất của Luật(tất cả sức mạnh của Nghị viện tuy nhiên lại bị kiềm chế bởi quyền tối thượng về mặt chính trị của Quốc gia, bởi sự tồn tại của « các tập tục của Hiến pháp » và sức nặng của công luận), luật pháp buộc phải có một số tính chất nội tại (tính đại chúng, được công bố, không hồi tố, trong sáng, hài hòa, ổn định, và trước hết là có tính dự kiến) ; Cuối cùng, tự do cá nhân được bảo vệ bởi các tòa án thường, nguyên tắc bình đẳng trước luật pháp loại trừ tất cả mọi ưu tiên về mặt tư pháp cho các nhân viên của Hoàng gia. Cũng như thế, tại Hoa kỳ, due process of law, được thừa nhận bởi tu chính án thứ 14 năm 1868 dần dần được biết đến, không chỉ đề ra cho các cơ quan công quyền một số cách thức hành động (procedural due process), ví dụ như sự đảm bảm bằng một bản án đúng-, mà còn kéo theo một số nội dung của luật áp dụng (substantive due proces), trong khi các quan điểm vốn ban đầu không di quá xa nhau, thậm chí là có nhiều điểm chung, thì truyền thống của châu âu lục địa và anh quốc lại được phân cách : khác với rule of law, Nhà nước pháp quyền được xây dựng về căn bản rất là hình thức, độc lập với tính chất « nội dung » hay « thủ tục ».
Tuy vậy thứ chủ nghĩa hình thức này cũng có những hạn chế. Lý thuyết nhà nước pháp quyền đòi hỏi hơn điểm một nhà nước « hàn động bằng pháp luật » thông qua việc tạo lập một trật tự pháp lý có thứ bậc, lý thuyết này cũng đòi hỏi nhà nước, với tư cách như thế phải phục tùng pháp luật chứ không đơn thuần chỉ phục tùng thông qua các cơ quan của nó. Thế mà điều này cũng không phải là sự hiển nhiên : trật tự pháp lý thực tế là trật tự của chính Nhà nước và người ta suy ra từ tính được tổ chức có trật tự thứ bậc của luật pháp ý tưởng rằng Nhà nước phục tùng luật pháp, dù cầu viện đến kiểu suy luận vòng quanh hay trùng lặp về ngôn từ. Bằng cách phục tùng luật pháp mà nó sản sinh ra, nhà nước suy cho cùng thì chỉ phục tùng chính nó. Do đó có nguy cơ là sự lệ thuộc của Nhà nước vào pháp luật đơn thuần chỉ là một thứ mưu mẹo. Lý luận Nhà nước pháp quyền sẽ giải quyết vấn đề này bằng nhiều giải pháp khác nhau : bằng lý thuyết « tự giới hạn » vốn chiếm ưu thế trong tư duy pháp lý của người Đức, theo đó tồn tại một thứ pháp luật có trước và cao hơn cả nhà nước, cũng trả lời bằng các lý luận của hétéro limitation rất điển hình trong tư duy pháp lý Pháp, đặt ra nền tảng của thứ pháp luật nằm ngoài nhà nước, - trước khi H Kelsen chối từ những từ ngữ của cuộc tranh luận bằng cách khẳng định sự đồng nhất của Nhà nước và pháp luật, như vậy có vẻ như gót chân Achille của lý thuyết Nhà nước pháp quyền vốn dựa trên tiền đề về sự phục tùng của nhà nước vào pháp luật, không dẫn tới việc thiết lập một cách logic sự phục tùng này.

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2008

Mùa đông và nỗi nhớ…


Tuổi trẻ


Thu đến và đi như một cái chớp mắt, để lại cơ man nào là lá vàng phủ đầy dọc hai con đường nhỏ chạy song song dọc bờ kênh dài tít tắp. Chỉ vậy thôi, mùa thu đã đi xa sau một đêm ngắn ngủi! Vào một sáng trời chợt trở lạnh kèm theo những cơn mưa phùn dài không ngớt mang lại cho đất trời một dư vị khác, mùa đông đã về!

Trời lạnh lại thêm mưa phùn khiến những chàng trai cô gái đến từ xứ sở miền nhiệt đới nóng ấm xa xôi trước khi bước chân tới trường thường phải quàng thêm cái khăn len nhỏ, vội vã phủ lên mình chiếc áo khoác để chống lại mùa đông giá lạnh đang đến.

Nếu ai hỏi anh thích mùa nào nhất trong năm. Anh không trả lời được, vì tính cách vốn khô khan nông cạn khó có đủ tinh tế để nhìn ra được sự đổi thay hay nét đẹp của mỗi thời khắc trong năm.
Nhưng nếu hỏi anh nhớ nhất mùa nào trong năm, anh nghĩ là mình sẽ trả lời luôn không ngần ngại rằng mùa đông.

Mùa đông, nhớ có những khoảng khắc ngắn ngủi rất đơn giản đứng cùng một ai đó thang máy, bất chợt hai cánh tay nhỏ nhắn cài hộ cúc cổ áo khoác hay sửa lại chiếc khăn quàng cổ cho mình thật nhẹ nhàng, kèm theo một nụ cười tinh nghịch và một cái nhìn trìu mến ấm áp vô cùng. Chẳng nhớ hai cánh tay kia của cô gái nào nữa, mà suy cho cùng chẳng cần nhớ làm gì, chỉ cần biết giữa mùa đông lạnh lẽo nơi xứ người, chợt có một bàn tay ấm nóng dịu dàng chìa ra cho mình ...

Trời lạnh, vào buổi chiều muộn và lạnh giá có người khăng khăng đi cùng ra tận bến bus và chờ bus cùng dù ngược đường, đợi cho mình lên xe và lại giơ đôi bàn tay nhỏ nhắn và chắc hẳn cũng ấm áp kia lên vẫy chào tạm biệt. Đợi bus đi xa rồi mới chịu quay về! Thế thôi mà thật là cảm động đến mãi tận bây giờ!

Người con gái giơ hai cánh tay nhỏ thon dài để sửa lại cổ áo khoác cho mình kia, có lẽ lâu qua khiến mình quên mất dáng hình rồi. Và cũng có thể giữa cô sửa cổ áo và cô tiễn ra bus chẳng liên quan đến nhau, thậm chí là ba hay bốn cô hoàn toàn chẳng biết nhau, chẳng thể nào nhớ nổi nữa… Chỉ duy thứ bàn tay nhỏ nhắn nhưng rất đỗi ấm áp, thứ ấm nóng chân thành và giản dị và ngấm mãi tận đáy sâu của trái tim thì chẳng thế nào quên nổi.

Một mùa đông nữa lại về trên xứ của cơ man nào là lá vàng và những cơn gió lạnh thổi dọc triền sông. Mùa đông lạnh lẽo về khiến anh nhớ đến một bàn tay dịu dàng và nồng ấm đã cài hộ ta cúc áo khoác vào một buổi sáng mùa đông nào đó của những năm tháng xa nhà. Cuộc sống thật kì lạ, biết bao người con gái đã đi qua quãng thời gian tuổi trẻ của ta, bao người con gái ta đã ôm trong vòng tay, chẳng hề nhớ dù chỉ một dáng hình hay nét mặt, thế mà lại nhớ và cảm động mãi suốt chiều dài của cuộc sống bởi một cử chỉ đơn giản như thế.

Nguyễn Quân – Toulouse, France

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2008

Nhà nước pháp quyền (dịch và hiệu đính sách của J. Chevallier

Như đã hẹn, thay vì viết blog nhăng cuội và vào mấy diễn đàn cãi nhau vô bổ. Từ nay, ngoài tập trung cho việc hoàn thành luận văn, lúc rãnh rỗi sẽ cố gắng góp ích cho đời bằng việc dịch một vài thứ nghĩ là có ích cho mọi người, đặc biệt là những người không rành ngoại ngữ hoặc không đủ kiên nhẫn để đọc một cuốn sách dài dằng dặc về một vấn đề chắc mấy liên quan đến bản thân.
Thực sự mà nói thì đọc một cuốn sách mang tính học thuyết hàn lâm cao như cuốn được dịch sau đây trực tiếp bằng tiếng nước ngoài rất là mệt mỏi dù với một người trình độ Pháp văn tốt đến đâu. Một lý do rất đơn giản là có nhiều và rất nhiều từ vựng vốn không tồn tại trong tiếng Việt hoặc đã tồn tại nhưng còn rất mới mẻ với đại đa số công chúng. Ngoài ra, lý thuyết về nhà nước pháp quyền thực sự là mới mẻ với đa số người Việt Nam, ngay cả với những người làm nghề luật.

Bản dịch này chỉ là bản dịch thô theo dạng phổ biến kiến thức chứ không phải để in thành sách, thêm nữa là được dịch bởi một người mới tiếp xúc với Pháp văn nên có rất nhiều hạn chế. Mong nhận được sự góp ý của các bạn.
Bản dịch này dành tặng bạn 玉英

Giới thiệu về tác giả.
Sinh năm 1943, Jacques Chevallier (Giắc Sơ va li ê -phiên âm kiểu báo Nhân dân) hiện là giáo sư tại Đại học Paris 2 Paanthéon Assas. Sau khi thành lập và điều hành trung tâm nghiên cứu về chính trị và hành chính mang Picardie tại Amiens, từ năm 1999 đến nay ông quản lý Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học hành chính của ĐH Paris 2.
Là thành viên của hội đồng biên tập và khoa học của nhiều tạp chí khoa học, ông cũng đồng thời là tác giả của nhiều ấn phẩm trong lĩnh vực luật công, khoa học hành chính và chính trị, lý thuyết về nhà nước pháp quyền.
Các ấn phẩm mới nhất của ông vừa xuất bản là "khoa học hành chính" (in lần thứ 4, năm 2007), "Dịch vụ công" (in lần thứ 6, năm 2005), "Nhà nước hậu hiện đại" (in lần 2 năm 2004", "Nhà nước pháp quyền" (in lần 4, năm 2003)

Lý luận về nhà nước pháp quyền

Lý thuyết nhà nước pháp quyền được hình thành trong lĩnh luật pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu hệ thống hóa và đòi hỏi của việc xây dựng hệ thống luật công. Là sản phẩm mang tính học thuyết, lý thuyết này mang tính lý thuyết ở tối thiểu 2 nghĩa : Một mặt, trong phạm vi của học thuyết này xuất phát từ những diễn giải được phép của nó, những tác nhân tích cực của hệ thống hóa, lãnh trách nhiệm cấu trúc lại một thực tiễn pháp lý dưới dạng một tổng thể hài hòa, lý tính và hợp lý. Mặt khác, trong chừng mực lý luận này được trình bày như một kết cấu lý thuyết, một « buồng máy khái niệm » cung cấp một sơ đồ kiến giải tổng thể của hệ thống luật công. Nhưng lý thuyết này tuyệt nhiên không phải là một khối đồng nhất.

Xét về nguồn gốc, thực tế có nhiều khái niệm nhà nước pháp quyền khác nhau. Nhà nước pháp quyền sẽ được đặt ra khi thì với tư cách một nhà nước hành động dựa trên pháp luật, dưới dạng pháp luật, khi thì với tư cách nhà nước phục tùng luật pháp, thậm chí với tư cách nhà nước trong đó luật pháp chứa đựng một số thuộc tính nội tại. 3 phiên bản này (hình thưc,s vật chất và nội dung) mô tả nhiều dáng vẻ có thể tồn tại, nhiều kiểu hình dạng nhà nước pháp quyền mà không tránh khỏi những kiến giải mang tính chính trị. Các trò chơi chính trị này được thể hiện trong suốt thể kỉ 19 trong học thuyết Rechtsstaat của người Đức, theo đó trong bối cảnh tự do, quan niệm nó như một nguyên tắc giới hạn quyền lực nhà nước và với những gì của một viễn cảnh chuyên quyền độc đoán, từ đó tạo ra một công cụ nhằm hợp lý hóa việc thực thi sự chuyên quyền đó, là một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Khoa học pháp lý Pháp tiếp nhận lý luận về nhà nước pháp quyền vào đầu thế kỉ 20, nhưng truyền thống chính trị của người pháp vốn thừa hưởng những thành quả của cách mạng 1789 đã đối lập với cách nhìn của người Đức.

Tuy vậy, cũng không nên đè cao quá đáng những biến thể này : Một mặt, chính là dựa trên lý thuyết Rechtsstaat mà lý luận của người Pháp xem xét lại tính tuyệt đối của nghị viện, mặt khác quan điểm mang tính hình thức bổ trợ cho các biến thể khác chứ không hoàn toàn loại trừ và phủ định toàn bộ, bằng cách hướng tới việc quan niệm nhà nước pháp quyền đơn giản là một chế độ (régime) trong đó nguyên tắc trật tự thứ bậc của các quy phạm là nền tảng.

Tuy vậy, cũng không nên đè cao quá đáng những biến thể này : Một mặt, chính là dựa trên lý thuyết Rechtsstaat mà lý luận của người Pháp xem xét lại tính tuyệt đối của nghị viện, mặt khác quan điểm mang tính hình thức bổ trợ cho các biến thể khác chứ không hoàn toàn loại trừ và phủ định toàn bộ, bằng cách hướng tới việc quan niệm nhà nước pháp quyền đơn giản là một chế độ (régime) trong đó nguyên tắc trật tự thứ bậc của các quy phạm là nền tảng.

Thứ chủ nghĩa hình thức này vốn cho phép tạo laoah sự đôc lập của khoa học pháp lý và đỉnh cao của nó là Kelsen, hướng tới không chỉ loại bỏ tất cả những thắc mắc về nội dung của luật pháp mà còn hướng tới che bớt cái nền tảng trên đó lý luận nhà nước pháp quyền được thiết lập và tạo ra sự ảnh hưởng thực sự của nó : sắp xếp bằng một trật tự pháp lý có hệ thống chỉ có tác dụng trong pham vi khi nó dựa trên tổng thế những giá trị mà thiếu nó tất cả sự sắp xếp chỉ là tính hình thức vô giá trị, và trái lại vô cùng cần thiết ghi lại một cách xác thực sự cần thiết của việc hạn chế quyền lực nhà nước và làm sáng lên quan niệm về thứ luật nổi trội bằng một hệ thống bảo đảm chính đáng.

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2008

Mặt trái của việc mở rộng Hà Nội

Bài này viết cùng Hậu Béo và Minh sexy đợt rộ lên đề án mở rộng Hà Nội, gửi cho mấy báo nhưng không nơi nào đăng cả nên gửi đăng BBC Việt ngữ.
Nhân cuộc tranh luận về việc mở rộng thủ đô, BBC xin giới thiệu bài viết của Nguyễn Quân, Viện nghiên cứu pháp lý về xây dựng và quy hoạch Toulouse, Pháp; Phùng Trung Hậu, Kiến trúc sư, Barcelona, Tây Ban Nha; Nguyễn Lê Minh, Kts, Mexico Citi, Mexico.

XU THẾ MỞ RỘNG THỦ ĐÔ

Đề án mà Chính phủ đệ trình trước Quốc hội dường như đã vô tình hay cố ý nhầm lẫn giữa quy hoạch Thủ đô theo hướng mở rộng không gian ảnh hưởng bằng hình thức "quy hoạch vùng Thủ đô" với việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô.

Ngay cả những ví dụ mà những người lập đề án đưa ra cũng không chính xác về mặt khoa học, ví dụ:

- Thủ đô của Brazil không phải được mở rộng thêm Brazilia bên cạnh Sao Paulo (không phải San Paulo). Sao Paolo chưa bao giờ là Thủ đô của lên bang Brazil, vào năm 1960 chính quyền nước này đã quyết định chọn Brazilia làm Thủ đô mới thay thế cho Rio de Janeiro ( Rio de Janeiro là thủ đo của Braxin từ thời thuộc địa Bồ Đào Nha 1808 đến năm 1960, còn Sao Paulo là trung tâm kinh tế lớn nhất liên bang có vai trò tương tự như TP. Hồ Chí Minh).

Tại Pháp để giảm gánh nặng tập trung cho thủ đô Paris, người ta cho xây dựng thêm 5 đô thị vệ tinh ở vùng phụ cận gồm Cergy-Pontoise, Évry, Marne-la-Vallée, Sénart et Saint-Quentin-en-Yvelines.

- Trường hợp của Kuala Lumpur, chính quyền nước này xây dựng 2 thành phố mới Pytrajaya và Cyberjaya ở ngoại ô Thủ đô theo mô hình thành phố vệ tinh nhằm giảm tải cho Kuala Lumpur vốn gặp nhiều khó khăn do việc tập trung quá đông dân cư trong một địa giới chật hẹp.

Trong đó Pytrajaya được xem như Thủ đô hành chính mới của Malaysia nằm cách Thủ đô cũ 20km về phía nam. Còn Cyberjaya là trung tâm công nghệ cao, được ví như "thung lũng Silicon của châu Á"

Những nhầm lẫn có thể nói là sơ đẳng này mà bất cứ ai chú ý cũng có thể nhận ra. Điều này có vẻ trái ngược với tuyên bố trước báo chí của những người phụ trách đề án: "đề án đã được xây dựng hết sức cẩn trọng, kỹ lưỡng". Sự nhầm lẫn không biết là vô tình hay hữu ý của những người lập đề án qua những ví dụ được trích dẫn dường như với mục đích thuyết phục rằng xu thế đô thị hoá ở các quốc gia hiện nay là mở rộng và làm phình to các đô thị hiện có bằng cách sát nhập địa giới. (mà cụ thể trong trường hợp này là phình to Hà nội, ôm trọng Hà tây cùng một số huyện thuộc Hoà Bình Vĩnh Phúc...)

Nhưng xây dựng quy hoạch vùng thì lại hoàn toàn khác.Với áp lực về sự bùng nổ dân số và các vấn đề xã hội, kinh tế trong các đô thị - thủ đô.Các quốc gia thường xây dựng các thành phố mới nhằm giảm tải cho Thủ đô đông đúc và quy hoạch kém, và phải đối mặt với những thách thức liên quan đến giao thông công cộng, rác thải, ô nhiễm môi trường… ví dụ ngay từ những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, thay vì sáp nhập một cách máy móc các địa phương lân cận vào địa giới hành chính thủ đô London, chính phủ Anh đã cho xây dựng các new towns (thuật ngữ New Town xuất hiện ở Anh để để chỉ mô thức phát triển đô thị vệ tinh ở Anh từ sau Thế chiến thứ hai) gồm Crawley và Milton Keynes ở ngoại vi London. Tại Pháp để giảm gánh nặng tập trung cho thủ đô Paris, người ta cho xây dựng thêm 5 đô thị vệ tinh ở vùng phụ cận gồm Cergy-Pontoise, Évry, Marne-la-Vallée, Sénart et Saint-Quentin-en-Yvelines, trong đó Marne -la-Vallé trở thành trung tâm mới của Thủ đô Paris và vùng lân cận về kinh tế, thương mại và khoa học kỹ nghệ.

Trong báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội thể hiện sự thiếu rõ ràng và nhất quán. Một mặt muốn xây dựng quy hoạch vùng thủ đô, tức là áp dụng mô hình phổ biến hiện nay trong mở rộng không gian đô thị (mô hình đô thị vệ tinh chức năng) ở phần đầu (2. Quá trình lập quy hoạch vùng thủ đô) và phần cuối bản báo cáo (định hướng phát triển không gian đô thị thủ đô) với những lý lẽ ủng hộ cho việc mở rộng địa giới hành chính của thủ đô lên gấp 3 lần (!?). Nghĩa là mập mờ hay cố tình không phân biệt sự khác nhau giữa xây dựng quy hoạch vùng Thủ đô và mở rộng địa giới hành chính thủ đô?

Các thành phố thêm một phình to ra trong khi chất lượng cuộc sống không được cải thiện và khoảng cách giàu nghèo ngày một đào sâu thêm. Đó là cái vòng luẩn quẩn mà các nước đang phát triển đang phải đối mặt.

Cần phải nhắc lại rằng, hình thức quy hoạch phát triển đô thị theo mô thức "đô thị trung tâm và các đô thi vệ tinh chức năng" hoàn toàn khác biệt với cách thức "sát nhập toàn bộ một khu vực địa lý rộng lớn duới sự quản lí tập trung cả một cơ quan hành chính thống nhất".

Dưới góc độ pháp lý thì các đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh vẫn là các đơn vị hành chính độc lập, có thẩm quyển riêng biệt, tức là có bộ máy hành chính và tư pháp độc lập, không phụ thuộc nhau. Tuy nhiên, các đô thị vệ tinh được xây dựng theo mô hình đô thị chức năng nhằm giảm gánh nặng cho đô thị trung tâm, và được liên kết, hỗ trợ lẫn nhau bằng một khuôn khổ pháp lý thuận lợi.

Khi các đô thị quyết định gộp lại nhằm cùng thực thi một số nhiệm vụ nào đó, như thu dọn và xử lý rác, cấp thoát nước, giao thông công cộng, hay cùng xây dựng một chiến lược, dự án phát triển, quy hoạch và chỉnh trang đô thị, các đơn vị này có thể lập ra các "cơ quan công quyền về hợp tác liên đô thị " mà thành viên được cử từ đại diện của các đô thị thành viên. Mô hình này đã đựoc nhiều nước áp dụng thành công như Pháp, Bỉ, Canada...

Có một nghịch lý tại các nước châu Phi - trình độ phát triển tương đương Việt Nam hiện nay.

Các thành phố được mở rộng cùng lúc với việc “nông thôn hóa” chính nó là do chất lượng cuộc sống giảm. Một bộ phận lớn dân cư đô thị có chất lượng cuộc sống không khác gì dân cư ở nông thôn và đặc biệt là họ vẫn làm các công việc liên quan đến nông nghiệp. (Đây là viễn cảnh có thể nhìn thấy được nếu Hà nội nay mai được mở rộng theo đề án đang đệ trình).

Những đô thị khổng lồ đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều ở châu Mỹ Latinh, châu Á. Do các quốc gia đã để quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát mà không có chiến lược quy hoạch phù hợp (bằng cách sử dụng những kinh nghiệm của các quốc gia Tây Âu trong việc hoạch định chính sách sử dụng đất đai, quy hoạch và chỉnh trang đô thị, quản lý và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đô thị hoá), dẫn đến các thành phố đã phình ra quá cỡ trong khi kết cấu hạ tầng yếu kém không thể đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cư dân đô thị. Những vấn đề mà các quốc gia này đang phải đối mặt là dân số tập trung quá lớn vào một vài đô thị, gây áp lực về việc làm dẫn đến khoảng cách chênh lệch về giàu nghèo cao, nhà ở, cơ sở hạ tầng và dịch vụ, giao thông yếu kém.

Các Megacity (siêu đô thị) chủ yếu hình thành tại các nước nghèo. Nguyên nhân là những nước này không có phương tiện tài chính cũng như kinh nghiệm để xây dựng hệ thống hạ tầng vươn ra các vùng xung quanh, trong khi tốc độ nhập cư của dân nông thôn quá nhanh, cộng với năng lực quy hoạch kém, tham nhũng, v.v... Vì thế, cơ sở hạ tầng đã kém lại càng quá tải, trong khi dân cư lại vẫn tiếp tục đổ về các thành phố lớn.

Nếu trước tiên Hà Nội làm tốt nhiệm vụ của mình, là tổ chức sao cho ra một thủ đô văn minh, ngăn nắp sạch sẽ, thì hẳn sẽ dễ hơn, khi đó, các thành phố và tỉnh lân cận sẽ đảm nhận các vai trò về kinh tế, giúp giảm gánh nặng cho thủ đô.

Các thành phố thêm một phình to ra trong khi chất lượng cuộc sống không được cải thiện và khoảng cách giàu nghèo ngày một đào sâu thêm. Đó là cái vòng luẩn quẩn mà các nước đang phát triển đang phải đối mặt.

TÁC ĐỘNG THEO ĐỀ ÁN CHÍNH PHỦ

Mở rộng địa giới hành chính có ích gì, khi những độc lực giúp cho một đô thị phát triển chính là nội lực và cơ chế, cùng với khả năng quản lý của bộ máy hành chính ở đô thị đó? Nếu như mở rộng địa giới hành chính, chúng ta có thể hình dung như một người đã bày bừa căn phòng của mình rồi muốn có thêm căn phòng rộng ra, hi vọng thoáng đãng hơn, nhưng thực ra, nếu anh ta không dọn ngăn nắp lại căn phòng của mình, thì căn phòng mới có rộng ra rồi anh ta cũng lại bày bừa ra mà thôi.

Mở rộng địa giới hành chính Hà nội, những giá trị văn hoá của các vùng giàu truyền thống như Hà Tây, Sơn Tây có nguy cơ bị mai một. Không ai bỏ tiền cho từng người dân để giữ văn hoá của họ, khi mà đất của họ đã trở thành đất Hà Nội, họ có quyền được như chính " người Hà Nội" - đô thị hoá một cách cưỡng bức .Tất yếu là chúng ta sẽ có một đô thị " nhà quê" tại các vùng quê truyền thống. Không màu xanh, không ra nông thôn, mà cũng chả văn minh như thành phố. Tỷ lệ nông dân không có việc làm chắc chắn sẽ tăng do bán đất ruộng. Các vấn đề xã hội sẽ nảy sinh. .. Đó là những thực tế mà những ai có đầu óc suy lụân, đối chiếu với trình độ quản lý và bối cảnh hiện nay của Việt Nam thì sẽ hình dung ra ngay được.

Nếu trước tiên Hà Nội làm tốt nhiệm vụ của mình, là tổ chức sao cho ra một thủ đô văn minh, ngăn nắp sạch sẽ, thì hẳn sẽ dễ hơn, khi đó, các thành phố và tỉnh lân cận sẽ đảm nhận các vai trò về kinh tế, giúp giảm gánh nặng cho thủ đô.

Con người, bản chất rốt ráo họ cũng như con vật về bản năng sinh tồn, bản năng " kiếm ăn ". Nơi nào có chỗ cho sự phát triển, thì nơi đó nguời ta sẽ đến, mà chả cần phải khoác áo thủ đô hay bất kỳ cái gì. Vậy tại sao chúng ta không thu hút đầu tư cho các tỉnh này để phát triển kinh tế vốn đã là tiềm năng của họ? Hơn nữa, do không thay đổi về địa giới hành chính, chúng ta sẽ tránh được một cuộc khủng hoảng về bất động sản mà suy cho cùng những cuộc khủng hoảng này chỉ có lợi cho giới đầu cơ đất.

Nếu như coi việc mở rộng thủ đô là khoác tên mới cho các miền đất cũ để phát triển kinh tế, thì hoá ra chúng ta thừa nhận sự phát triển chỉ mang tính hình thức và bề nổi. Cũng có nghĩa là thừa nhận căn bệnh ưa hình thức sáo rỗng , và chấp nhận ủng hộ nó như một chân lý đúng đắn.?

QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

Về diện mạo đô thị, thì các tỉnh luôn lấy Hà Nội làm tấm gương, những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của Hà Nội đã và đang để lại dấu ấn trên các miền quê. Vì vậy, việc đô thị hoá theo hướng chọn lọc và văn minh cho thủ đô là cần thiết trong giai đoạn hiện nay, không những tạo ra bộ mặt đô thị chỉn chu cho chính thủ đô (vai trò của một quốc gia trong quan hệ quốc tế) mà còn tạo ảnh hưởng lên các vùng lân cận (vai trò đô thị trung tâm của quốc gia).

Hiện nay Hà Tây chưa sát nhập vào Hà Nội mà giá đất trên địa bàn đã lên rất cao, do giới đầu cơ nhà đất đẩy lên. Đó là một sự bất hợp lý, và sự bất hợp lí này sẽ được nhân lên khi việc sát nhập chính thức được thông qua. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Nạn nhân của một tương lai bất ổn ấy chắc chắn không phải những người đầu cơ, càng không phải là cán bộ trong bộ máy chính quyền sẽ hình thành, trách nhiệm đương nhiên cũng sẽ không nằm lên vai những người xây dựng nên đề án này, mà những người thiệt thòi chính là những người dân nghèo.

Hà nội là thủ đô của cả nước, thẳng thắn mà nói bộ mặt của thủ đô vẫn còn chưa sáng sủa lắm, chưa nói gì đến sánh cùng các nước trong khu vực. Sau khi sát nhập thì bộ mặt của "thủ đô pha nông thôn" sẽ như thế nào đây??

Mục đích của đô thị hoá hay bất cứ tiến trình cải biến xã hội nào cũng là nâng cao đời sống nhân dân và giảm sự chênh lệnh về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Vậy thì mục đích này sẽ không đạt được với một đề án chưa được nghiên cứu kĩ lưỡng trên phương diện các tác động xã hội và văn hoá.

Ngoài ra, việc yếu kém về mặt quản lý đất đai chắc chắn sẽ tạo điều kiện cho tham nhũng gia tăng. Nạn nhân cũng lại chính là những người dân nghèo, còn những ai được hưởng lợi thì đã rõ.
Nếu như nghiên cứu mở rộng địa giới Hà Nội là một quá trình nghiêm túc và kĩ luỡng thì phải thấy rõ kết quả chưa nên mở rộng Hà Nội quá rộng trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện quản lý hành chính và công tác quy hoạch ngay chính tại Hà Nội mà người lạc quan nhất cũng thấy là quá yếu kém. (Xây dựng trái phép, nhà cao tầng vượt chiều cao ngay chính ở khu không được phép, ô nhiễm khói bụi, tắc đường, quy hoạch treo...)

Hãy là Thủ đô thật gọn gàng, văn minh, để Hà Nội là hình mẫu cho cả nước về xây dựng và quy hoạch đô thị. Để cả nước hướng về Hà Nội với niềm tin yêu và hi vọng.

Nếu nhập Hà Tây và các khu vực lân cận vào địa giới Hà Nội, mà mật độ xây dựng ở nội thành vẫn giữ nguyên thì không thể có hệ thống giao thông thuận lợi. Không thể diễn giải rằng mở rộng địa giới hành chính Hà Nội thì mới có giao thông thuận tiện. Giao Thông của Hà Nội thực chất vẫn là thế. Chỉ có thể giảm mật độ tham gia giao thông bằng cách san sẻ gánh nặng về dân số thông qua hình thức thu hút lao động vào các thành phố vệ tinh. Hà nội sẽ thiên về chính trị văn hoá hơn là kinh tế. Tại sao nhiều quốc gia nhiều quốc gia với thủ đô diện tích nhỏ hẹp và hệ thống giao thông nội đô vẫn là của hàng trăm năm trước đây (không cơi nới để bảo tồn các di sản kiến trúc) nhưng nạn tắc đường rất hiếm khi xảy ra? Bởi vì chính quyền các nước này có chính sách lâu dài và hợp lý nhằm khuyến khích giảm tải dân cư trong nội thị bằng cách xây dựng hệ thống giao thông thuận tiện kết nối Thủ đô cũ với các thành phố vệ tinh đơn chức năng (thương mại, du lịch, công nghiệp, khoa học...). Thậm chí một số quốc gia như Pháp, trụ sở các tập đoàn lớn không nằm ở Thủ đô mà ở các thành phố vệ tinh, hơn thế nữa là tại các tỉnh lân cận.

Qua bản đề án sơ lược của Bộ xây dựng trình Quốc hội, cùng với những bức xúc của đông đảo tầng lớp trí thức và nhân dân về vấn đề mở rộng thủ đô, dường như những người có thẩm quyền đang vô tình hay cố ý lờ đi việc quy hoạch vùng thủ đô khác với mở rộng địa giới hành chính, kèm theo đó cố gắng tô vẽ những ước mơ khó có thật trong thời điểm hiện nay, và hơn nữa phớt lờ những nghiên cứu nghiêm túc cũng như đóng góp của đông đảo các nhà chuyên môn và những người quan tâm đến tương lai của thủ đô Hà Nội.

Mong rằng những người làm quy hoạch có thẩm quyền học tập và kế thừa những bài học của các quốc gia đã trải qua giai đoạn phát triển như Việt Nam, đặc biệt là các quốc gia châu Âu với trình độ quản lý khoa học, chuyên nghiệp và bài bản, cũng như rút ra những bài học đắt đỏ mà các quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Philipin đã và đang phải trả giá do để hình thành các siêu đô thị Megacity. Không cần và không nên mở rộng Hà Nội một cách lấy được.

Hà nội là thủ đô của cả nước, thẳng thắn mà nói bộ mặt của thủ đô vẫn còn chưa sáng sủa lắm, chưa nói gì đến sánh cùng các nước trong khu vực. Sau khi sát nhập thì bộ mặt của "thủ đô pha nông thôn" sẽ như thế nào đây??